Người Mỹ đã bỏ phiếu như thế nào trong hơn 200 năm lịch sử?

Trong hơn 200 năm qua, việc bỏ phiếu của người Mỹ đã có nhiều thay đổi, từ “bỏ phiếu bằng giọng nói” sang bảng điều khiển kỹ thuật số màn hình cảm ứng.

 

Bỏ phiếu bằng giọng nói

Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không quy định chính xác cách người Mỹ bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử. Điều 1, Phần 4 chỉ đơn giản nói tùy thuộc vào từng tiểu bang để xác định “thời gian, địa điểm và cách thức tổ chức bầu cử”. Trong 50 năm bầu cử đầu tiên ở Mỹ, hầu hết các cuộc bỏ phiếu không được thực hiện theo kiểu bỏ phiếu kín và các cử tri thậm chí không đưa ra lựa chọn của họ bằng một lá phiếu giấy.

Thay vào đó, những người có quyền bầu cử (chỉ đàn ông da trắng vào thời điểm đó) đã đến tòa án địa phương và công khai thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình bằng giọng nói. Được gọi là “viva voce” hoặc bỏ phiếu bằng giọng nói, hình thức bỏ phiếu công khai dễ thấy được quy định bằng luật ở hầu hết các tiểu bang và duy trì đến đầu thế kỷ 19, riêng Kentucky đến cuối năm 1891.

Khi cử tri đến tòa án, thẩm phán sẽ yêu cầu họ tuyên thệ trước Kinh thánh rằng họ chưa bỏ phiếu. Sau khi tuyên thệ, người bỏ phiếu sẽ tự xưng tên của mình với thư ký và công bố tên ứng cử viên mình chọn trong mỗi cuộc bầu.

Các chiến dịch vận động tranh cử và vui chơi giải trí được cho phép tổ chức tại địa điểm bỏ phiếu, bầu không khí lễ hội thường đi kèm với các cuộc bầu cử trước đây ở Mỹ, giải thích tại sao các cuộc bầu cử trong thời kỳ bỏ phiếu bằng giọng nói lại thu hút tỷ lệ cử tri đi bầu cao tới 85%.

Những lá phiếu giấy đầu tiên

Những lá phiếu giấy đầu tiên bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 19, nhưng chúng không được tiêu chuẩn hóa và thậm chí không được in bởi các quan chức bầu cử của chính phủ. Ban đầu, những lá phiếu giấy không hơn gì những mảnh giấy thường mà trên đó cử tri viết nguệch ngoạc tên các ứng cử viên của mình rồi thả vào thùng phiếu. Các tờ báo bắt đầu in ra những lá phiếu trống với tên của từng điểm bỏ phiếu và độc giả có thể xé ra, điền các ứng cử viên họ lựa chọn.

 

Máy bỏ phiếu “Automatic Booth” hoạt động theo nguyên lý đòn bẩy; Nguồn: history.com
Máy bỏ phiếu “Automatic Booth” hoạt động theo nguyên lý đòn bẩy; Nguồn: history.com

 

Vào giữa thế kỷ 19, các quan chức đảng Cộng hòa hoặc Dân chủ của tiểu bang sẽ phân phát tờ rơi in sẵn cho các cử tri chỉ liệt kê các ứng cử viên của đảng họ theo điểm bỏ phiếu. Chúng được gọi là "vé" của đảng Cộng hòa và Dân chủ vì những hình chữ nhật nhỏ bằng giấy giống như vé tàu hỏa thế kỷ 19. Những người trung thành với đảng có thể sử dụng hợp pháp tấm vé in sẵn làm lá phiếu thực của họ, khiến việc bỏ phiếu theo đường lối của đảng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.

Lá phiếu giấy theo mẫu của Australia

Các cuộc bỏ phiếu bằng giấy thủ công nửa sau của thế kỷ 19 dẫn đến việc thường xuyên bị cáo buộc gian lận, vì vậy, cử tri kêu gọi cải cách bầu cử. Giải pháp được chọn theo kinh nghiệm của Australia, quốc gia đi tiên phong trong bỏ phiếu giấy, được chính phủ in phiếu tiêu chuẩn hóa đầu tiên vào năm 1858.

Trên cái gọi là lá phiếu giấy theo kiểu Australia có in tên của tất cả các ứng cử viên, phiếu sau đó được trao cho các cử tri tại phòng bỏ phiếu, lần đầu tiên được các tiểu bang New York và Massachusetts áp dụng vào năm 1888.

Máy bỏ phiếu đầu tiên

Vào cuối thế kỷ 19, Jacob H. Myers đã phát minh ra máy bỏ phiếu “Automatic Booth” hoạt động theo nguyên lý đòn bẩy - một kỳ công kỹ thuật, áp dụng cho các cuộc bầu cử Mỹ từ năm 1910 đến năm 1980. Douglas Jones, giáo sư khoa học máy tính tại Đại học Iowa đã nghiên cứu lịch sử của máy bỏ phiếu và kết luận rằng thiết bị mang tính đột phá của Myers có nhiều bộ phận chuyển động hơn bất kỳ máy nào khác vào thời kỳ đó, kể cả ô-tô.

Những chiếc máy bỏ phiếu này có giá trị giá hàng nghìn USD và được lắp đặt ở góc của tòa thị chính địa phương trong nhiều thập kỷ. Bỏ phiếu trên máy đòn bẩy rất dễ dàng. Mỗi ứng cử viên cho mỗi cuộc đua có một đòn bẩy nhỏ bên cạnh tên của mình và người Mỹ đã bỏ phiếu bằng cách kéo đòn bẩy của các ứng cử viên đã chọn xuống.

Nếu họ muốn bỏ phiếu cho đường lối của một đảng, họ có thể kéo một đòn bẩy để tự động chọn các ứng cử viên của riêng Đảng Cộng hòa hoặc Dân chủ. Nhưng bên trong cỗ máy, quy trình kiểm phiếu vô cùng phức tạp. Đằng sau mỗi cần gạt là các cơ chế ngăn không cho phiếu bầu được đếm cho đến khi đòn bẩy được kéo đến vị trí cuối cùng (đề phòng trường hợp cử tri đổi ý).

Các đòn bẩy của mỗi đảng được liên kết với mọi đòn bẩy ứng viên trên phiếu và không cần phải tốn một watt điện nào. Hầu hết các cử tri đều không biết, động tác mở rèm trên máy bỏ phiếu là hành động cuối cùng để tính phiếu và cài đặt lại máy cho cử tri tiếp theo. Những cỗ máy này đã truyền niềm tin cho công chúng vì độ chính xác của chúng.

Nhưng phía sau hậu trường, không rõ là độ chính xác có bị “can thiệp” hay không. “Automatic Booth” này là máy cơ khí, một chiếc răng trên một bánh răng bị thiếu có thể là nguyên nhân gây ra những sai sót nghiêm trọng mà các quan chức bầu cử hiếm khi phát hiện được.

Bỏ phiếu bằng thẻ đục lỗ

Hệ thống bỏ phiếu bằng thẻ đục lỗ đầu tiên ra đời vào những năm 1960, khi các công ty như IBM sản xuất thẻ đục lỗ trông giống như của các máy tính. Sự đổi mới tuyệt vời của thẻ đục lỗ là các lá phiếu có thể được đếm bằng máy tính, sau đó có thể tạo ra các bảng thể hiện kết quả ngay lập tức vào đêm bầu cử, điều mà các cử tri hiện nay cho là đương nhiên.

Bỏ phiếu của cử tri Mỹ thời đại 4.0; Nguồn: history.com
Bỏ phiếu của cử tri Mỹ thời đại 4.0; Nguồn: history.com

Nhưng những hệ thống này cũng có những hạn chế - điều mà bầu cử Mỹ trải nghiệm một cách đau đớn trong cuộc kiểm phiếu để lại nhiều tai tiếng ở Florida về cuộc bầu cử Tổng thống năm 2000. Những mẫu giấy hình chữ nhật (chads) nhỏ đục từ thẻ đục lỗ khi cử tri đưa ra lựa chọn của họ bắt đầu có vấn đề khi chúng không được tách ra hoàn toàn hoặc chỉ bị đục một phần.

Trong các cuộc kiểm phiếu ở Florida, các quan chức bầu cử phải kiểm tra bằng tay từng mẫu phiếu bấm lỗ để xác định xem nên đếm hay vứt bỏ những lá phiếu khiếm khuyết đó.

Bỏ phiếu bằng 'iPad'

Sau cuộc kiểm phiếu lại ở Florida, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Bỏ phiếu “Help America Vote Act 2002”, quy định các tiêu chuẩn cao hơn đối với thiết bị bầu cử được sử dụng trong các cuộc bầu cử liên bang. Đạo luật bầu cử này coi công nghệ màn hình cảm ứng sẽ là tương lai của việc bỏ phiếu, và vào đầu những năm 2000, đã có một làn sóng áp dụng máy bỏ phiếu màn hình cảm ứng, và sau đó bị phản ứng dữ dội.

Mặc dù các tiểu bang và thành phố đã chi hàng triệu USD để nâng cấp thiết bị bỏ phiếu, nhưng không phải tất cả các máy bỏ phiếu màn hình cảm ứng mới đều được tạo ra như nhau, và trục trặc phần mềm đã tạo ra một số lỗi trong qua trình kiểm phiếu cử tri

Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2016, các máy bỏ phiếu điện tử ở 21 tiểu bang được cho là đã trở thành mục tiêu của tin tặc Nga. Do đó, một số tiểu bang đã loại bỏ các máy bỏ phiếu màn hình cảm ứng đắt tiền của họ và quay trở lại bỏ phiếu bằng giấy.

Máy bỏ phiếu dùng công nghệ quét quang học

Ngay sau khi các máy bỏ phiếu bằng thẻ đục lỗ đầu tiên được tung ra thị trường vào những năm 1960, công nghệ bỏ phiếu đầy cạnh tranh được gọi là máy quét quang học cũng ra đời. Các máy bỏ phiếu này được lấy cảm hứng trực tiếp từ các biểu mẫu có thể quét được điền vào ô trống được sử dụng để tự động chấm điểm các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Công nghệ quét quang học được cho là rẻ và khắc phục được các yếu điểm của công nghệ đục lỗ.

Với lo ngại việc máy bỏ phiếu bị tin tặc, trong khi công nghệ quét quang học hiện là cách phổ biến nhất để bỏ phiếu ở Mỹ, nhiều tiểu bang khuyến khích bỏ phiếu sớm qua thư. Các lá phiếu bằng giấy điền đầy đủ thông tin có thể dễ dàng được gửi đến các cử tri, giảm nhu cầu về số lượng tình nguyện viên tại địa điểm bỏ phiếu và mở rộng đáng kể khung thời gian bỏ phiếu ngoài ngày bầu cử./.

CTV Lê Ngọc/VOV.VN 

(theo history.com)

Nguồn:vpdf.org.vn Copy link