Lý Hiển Long nói về hiểm họa từ cuộc đối đầu Mỹ – Trung

Sự trỗi dậy của Trung Quốc liệu có thay đổi cục diện một “nền hòa bình kiểu Mỹ” tại khu vực châu Á. Phản ứng của các quốc gia trong khu vực sẽ ra sao, chọn Mỹ hay chọn Trung Quốc?

 

Bài viết của Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long. Bài viết được đăng trên Tạp chí Foreign Affairs.

Trong cuộc trò chuyện với cựu Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi vào năm 1988, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình từng nói: “Trong những năm gần đây, người ta nói rằng thế kỷ tiếp theo sẽ là thế kỷ của châu Á-Thái Bình Dương, như thể điều đó chắc chắn sẽ trở thành hiện thực. Tôi không đồng ý với quan điểm này”. Hơn 30 năm sau, Đặng Tiểu Bình đã chứng tỏ rằng mình có tài đoán trước. Sau nhiều thập kỷ thành công kinh tế phi thường, châu Á giờ đây là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Trong thập kỷ này, quy mô của các nền kinh tế châu Á sẽ lớn hơn các nền kinh tế khác trên thế giới cộng lại, điều chưa từng xảy ra trong thế kỷ 19. Tuy nhiên, ngay cả lúc này, lời cảnh báo của Đặng Tiểu Bình vẫn còn có ý nghĩa: Một thế kỷ châu Á không phải là tất nhiên và cũng không phải là kết quả được báo trước.

Châu Á phát triển thịnh vượng là nhờ có “Pax Americana” – nền hòa bình kiểu Mỹ – vốn được duy trì từ sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, tạo ra bối cảnh chiến lược thuận lợi. Tuy nhiên, giờ đây, mối quan hệ rắc rối Mỹ-Trung đang đặt ra những câu hỏi sâu sắc về tương lai của châu Á và hình dạng của trật tự thế giới mới nổi. Các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Singapore, đặc biệt quan tâm tới vấn đề này, vì họ nằm ở điểm giao giữa lợi ích của các cường quốc khác nhau và phải tránh để không bị mắc kẹt ở giữa hay bị buộc phải đưa ra những lựa chọn làm mếch lòng các bên.

Nguyên trạng ở châu Á phải thay đổi. Tuy vậy, cấu trúc mới liệu sẽ cho phép châu Á thành công hơn nữa hay sẽ kéo theo tình trạng bất ổn đầy nguy hiểm? Điều đó phụ thuộc vào những lựa chọn mà Mỹ và Trung Quốc đưa ra, dù là lựa chọn riêng hay chung. Hai cường quốc này phải xây dựng một sự dàn xếp cho phép hai bên cạnh tranh trong một số lĩnh vực mà không để cho sự ganh đua đó phá hoại sự hợp tác trong các lĩnh vực khác.

Các quốc gia châu Á coi Mỹ là cường quốc lâu đời và sở hữu những lợi ích sống còn trong khu vực. Đồng thời, Trung Quốc là một thực tại rất gần với họ. Các nước châu Á không muốn bị buộc phải lựa chọn một trong hai. Và nếu một trong hai cường quốc này tìm cách buộc họ lựa chọn như vậy – nếu Washington tìm cách kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc hay Bắc Kinh tìm cách xây dựng phạm vi ảnh hưởng độc quyền ở châu Á – thì hai bên sẽ lao vào cuộc đối đầu sẽ kéo dài nhiều thập kỷ và đẩy thế kỷ châu Á, vốn được báo trước từ lâu, vào nguy hiểm.

Hai giai đoạn của nền hòa bình kiểu Mỹ

Nền hòa bình kiểu Mỹ ở châu Á trong thế kỷ 20 có 2 giai đoạn rõ ràng. Giai đoạn đầu tiên là từ năm 1945 đến những năm 1970, trong những thập kỷ đầu của Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ và các đồng minh cạnh tranh với khối Xô Viết nhằm giành ảnh hưởng. Mặc dù Trung Quốc đã góp sức cùng với Liên Xô đối đầu với Mỹ trong các cuộc chiến tranh ở bán đảo Triều Tiên và Việt Nam, những nền kinh tế nước này vẫn hướng nội và bị cô lập, hầu như không duy trì mối liên kết kinh tế nào với các nước châu Á khác. Trong khi đó, tại những nơi khác ở châu Á, các nền kinh tế thị trường tự do lại trên đà đi lên. Nhật Bản là nước làm được điều này sớm nhất, sau đó là các nền kinh tế công nghiệp hóa ở Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan.

Nhân tố giúp châu Á có được sự ổn định và thịnh vượng chính là Mỹ. Nước này đã đứng ra bảo vệ một trật tự toàn cầu cởi mở, hội nhập và dựa trên các quy tắc, mang lại “chiếc ô an ninh” mà trong đó, các quốc gia trong khu vực có thể hợp tác và cạnh tranh trong hòa bình. Các tập đoàn đa quốc gia Mỹ đã đầu tư vào châu Á trên diện rộng, mang theo vốn đầu tư, công nghệ và các ý tưởng. Khi Washington thúc đẩy thương mại tự do và mở cửa các thị trường Mỹ với thế giới, hoạt động thương mại giữa châu Á và Mỹ đã phát triển.

Hai sự kiện then chốt vào những năm 1970 đã dịch chuyển nền hòa bình kiểu Mỹ ở châu Á sang giai đoạn mới: Chuyến thăm bí mật của Henry Kissinger, khi đó là cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, tới Trung Quốc vào năm 1971, đặt nền tảng cho việc nối lại quan hệ Mỹ-Trung sau nhiều thập kỷ thù địch, và việc Đặng Tiểu Bình phát động chương trình “cải cách và mở cửa” vào năm 1978, cho phép nền kinh tế Trung Quốc cất cánh. Đến cuối thập kỷ này, nhiều rào cản kinh tế đã bị dỡ bỏ và thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng. Sau khi chiến tranh Việt Nam và thảm họa diệt chủng Pol Pot ở Campuchia kết thúc, Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực Đông Dương đã có thể tập trung năng lượng và nguồn lực của mình cho việc phát triển kinh tế, và bắt đầu theo kịp các nước khác ở châu Á.

Nhiều quốc gia châu Á từ lâu đã coi Mỹ và các nước phát triển khác là đối tác kinh tế chính của họ. Tuy nhiên, các nước này giờ đây ngày càng tận dụng những cơ hội mà sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc đã tạo ra. Thương mại và du lịch với Trung Quốc đã phát triển, và các chuỗi cung ứng bắt đầu hội nhập chặt chẽ. Chỉ trong vài thập kỷ, từ một nền kinh tế tầm thường so với các nước khác ở châu Á, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn nhất và là đối tác kinh tế lớn trong khu vực. Ảnh hưởng của Trung Quốc trong các vấn đề khu vực cũng theo đó gia tăng.

Tuy nhiên, nền hòa bình kiểu Mỹ vẫn tồn tại, và những thay đổi căn bản về vai trò của Trung Quốc đã diễn ra trong khuôn khổ của nền hòa bình ấy. Trung Quốc không có được vị thế để thách thức sự ưu việt của Mỹ và không tìm cách làm như vậy. Quả thật, nước này đã coi châm ngôn “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình là tư tưởng chỉ đạo, ưu tiên việc hiện đại hóa các ngành nông nghiệp, công nghiệp và khoa học công nghệ hơn việc xây dựng sức mạnh quân sự.

Do đó, các quốc gia Đông Nam Á được “cả chỉ lẫn chài”, vừa xây dựng mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc, vừa duy trì mối quan hệ vững chắc với Mỹ và các nước phát triển khác. Họ cũng làm sâu sắc thêm các mối quan hệ với nhau và chung tay nỗ lực tạo ra một cấu trúc mở cho sự hợp tác khu vực mà gốc rễ là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương năm 1989, thiết lập Diễn đàn khu vực ASEAN năm 1994 và tổ chức Hội nghị cấp cao Đông Á hàng năm từ năm 2005.

Trung Quốc tham gia đầy đủ các tiến trình này. Hàng năm, Thủ tướng Trung Quốc đều tới thăm một nước thành viên ASEAN để gặp mặt nhà lãnh đạo các quốc gia ASEAN, sẵn sàng giải thích cách nhìn của Trung Quốc đối với khu vực và đưa ra cho các nước thành viên ASEAN những đề xuất nhằm tăng cường sự hợp tác với Trung Quốc. Khi lợi ích của Trung Quốc trong khu vực gia tăng, họ đã đưa ra các sáng kiến của riêng mình, trong đó có Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB). Những sáng kiến này đã giúp tăng cường sự can dự của Trung Quốc với các nước láng giềng và đương nhiên làm gia tăng sức ảnh hưởng của nước này.

Tuy nhiên, vì khu vực này có cấu trúc mở, nên Trung Quốc không thể có được ảnh hưởng độc quyền. Mỹ vẫn là bên tham gia quan trọng, củng cố an ninh và sự ổn định trong khu vực và tăng cường can dự kinh tế thông qua các sáng kiến như Đạo luật sáng kiến tái bảo đảm châu Á và Đạo luật BUILD. ASEAN cũng có các cơ chế đối thoại chính thức với Liên minh châu Âu, cũng như với Ấn Độ và các quốc gia khác. ASEAN tin rằng một mạng lưới kết nối như vậy tạo ra khuôn khổ hợp tác mạnh mẽ hơn và không gian lớn hơn để thúc đẩy lợi ích chung của các nước thành viên trên trường quốc tế.

Cho đến nay, công thức này vẫn phát huy tác dụng. Tuy nhiên, cơ sở chiến lược của nền hòa bình kiểu Mỹ đã thay đổi căn bản. Trong 4 thập kỷ kể từ khi bắt đầu cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã biến đổi. Khi nền kinh tế, năng lực công nghệ và ảnh hưởng chính trị của nước này gia tăng theo cấp số nhân, quan điểm của nước này về thế giới cũng thay đổi theo. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay không còn trích dẫn câu châm ngôn “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình nữa. Trung Quốc tự coi mình là một cường quốc trên đất liền và khao khát đồng thời trở thành một cường quốc trên biển; họ đã và đang hiện đại hóa lục quân và hải quân, nhắm tới mục tiêu biến quân đội của họ thành một lực lượng chiến đấu tầm cỡ thế giới. Trung Quốc ngày càng bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích của họ ở nước ngoài và giành được điều mà họ coi là vị thế chính đáng của mình trong các vấn đề quốc tế; đây cũng là điều dễ hiểu.

Đồng thời, Mỹ vẫn là cường quốc nổi trội về nhiều mặt và đang đánh giá lại chiến lược lớn của mình. Khi tỷ trọng trong GDP toàn cầu của nước này giảm đi, không rõ liệu Mỹ sẽ tiếp tục gánh vác trách nhiệm duy trì hòa bình và ổn định hay sẽ theo đuổi cách tiếp cận hẹp hơn, theo hướng “nước Mỹ trước tiên”, để bảo vệ các lợi ích của mình. Trong bối cảnh Washington đặt ra những câu hỏi căn bản về trách nhiệm của mình trong hệ thống toàn cầu, mối quan hệ của họ với Bắc Kinh ngày càng được xem xét kỹ lưỡng.

Những lựa chọn căn bản của Mỹ và Trung Quốc

Mỹ và Trung Quốc mỗi bên đều phải đối mặt với những lựa chọn căn bản. Mỹ phải quyết định xem họ nên coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là mối đe dọa liên quan tới sự tồn tại của mình và tìm cách kìm hãm Trung Quốc bằng tất cả các phương tiện sẵn có hay chấp nhận rằng Trung Quốc đã trở thành một nước lớn bằng chính sức mình. Nếu lựa chọn con đường thứ hai, thì Mỹ sẽ phải xây dựng một cách tiếp cận với Trung Quốc mà sẽ thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh bất cứ khi nào có thể và không để cho sự cạnh tranh này hủy hoại toàn bộ mối quan hệ. Lý tưởng nhất là sự cạnh tranh này sẽ diễn ra trong một khuôn khổ đa phương được nhất trí gồm các quy tắc và chuẩn mực tương tự như của Liên hợp quốc và Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Mỹ dường như nhận thấy đây là một sự điều chỉnh đầy đau đớn, nhất là với sự đồng thuận ngày càng gia tăng ở Washington rằng kế hoạch can dự với Bắc Kinh đã thất bại và cần áp dụng cách tiếp cận cứng rắn hơn để bảo vệ các lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, dù nhiệm vụ của Mỹ có khó khăn đến đâu, thì việc nỗ lực nghiêm túc nhằm tạo điều kiện cho những khát vọng của Trung Quốc trong hệ thống các quy tắc và chuẩn mực quốc tế hiện tại vẫn là điều đáng làm. Hệ thống này áp đặt những trách nhiệm và hạn chế đối với tất cả các quốc gia, củng cố niềm tin, giúp xử lý những xung đột và tạo ra môi trường an toàn và ổn định hơn cho cả hợp tác lẫn cạnh tranh.

Thay vào đó, nếu Mỹ lựa chọn tìm cách kìm hãm sự trỗi dậy của Trung Quốc, thì họ sẽ có nguy cơ kích động phản ứng mà có thể sẽ đẩy hai quốc gia vào con đường đối đầu kéo dài nhiều thập kỷ. Mỹ không phải là một cường quốc đang suy yếu. Mỹ có khả năng phục hồi và sức mạnh rất lớn, trong đó phải kể đến khả năng thu hút nhân tài trên khắp thế giới; trong số 9 người gốc Hoa được trao giải Nobel trong các ngành khoa học, có tới 8 người là công dân Mỹ hoặc sau đó trở thành công dân Mỹ. Mặt khác, nền kinh tế Trung Quốc có động lực rất lớn và công nghệ ngày càng tiên tiến, khác xa với ngôi làng Potemkin hay nền kinh tế chỉ huy yếu ớt của Liên Xô trong những năm cuối cùng của nó. Bất kỳ cuộc đối đầu nào giữa hai nước lớn này đều không có khả năng kết thúc theo kiểu Chiến tranh Lạnh, tức là bằng sự sụp đổ trong hòa bình của một bên.

Về phần mình, Trung Quốc phải quyết định xem họ nên hay không nên tìm cách đạt được những gì họ muốn với tư cách một nước lớn không bị ai cản trở, chiếm lấy ưu thế nhờ quy mô và sức mạnh kinh tế của họ – nhưng có nguy cơ phải đối mặt với phản ứng dữ dội, không chỉ từ phía Mỹ mà còn từ các quốc gia khác. Cách tiếp cận này có khả năng sẽ làm gia tăng căng thẳng và thái độ oán giận, qua đó tác động tới vị thế và sức ảnh hưởng của Trung Quốc trong dài hạn. Đây là một mối nguy hiểm thực sự: Một cuộc thăm dò gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy người dân ở Canada, Mỹ và các quốc gia châu Á và Tây Âu khác có cái nhìn ngày càng tiêu cực về Trung Quốc. Bất chấp những nỗ lực gần đây của Trung Quốc nhằm xây dựng sức mạnh mềm ở nước ngoài – chẳng hạn như thông qua mạng lưới các Viện Khổng Tử hay các tờ báo và đơn vị truyền hình quốc tế thuộc sở hữu của Trung Quốc – xu hướng này vẫn là tiêu cực.

Mặt khác, Trung Quốc có thể công nhận rằng nước này không còn nghèo khó và yếu ớt, đồng thời chấp nhận rằng thế giới giờ đây kỳ vọng nhiều hơn về họ. Trung Quốc không còn lý do chính đáng nào về chính trị để biện minh cho việc tiếp tục được hưởng những sự nhượng bộ và đặc quyền mà họ đã có được khi còn là một nước nhỏ và kém phát triển hơn, chẳng hạn như những điều khoản hào phóng dành cho họ khi gia nhập WTO vào năm 2001. Một Trung Quốc lớn mạnh hơn không chỉ phải tôn trọng các quy tắc và chuẩn mực toàn cầu mà còn phải gánh vác trách nhiệm lớn hơn trong việc bảo vệ và nâng cấp trật tự thế giới mà nhờ đó Trung Quốc đã phát triển thịnh vượng đáng kinh ngạc đến vậy. Khi các quy tắc và chuẩn mực hiện tại không còn phù hợp nữa, Trung Quốc cần hợp tác với Mỹ và các quốc gia khác để đưa ra những dàn xếp được sửa đổi mà tất cả mọi người đều có thể chấp nhận.

Con đường tạo ra một trật tự mới không hề đơn giản. Sức ép mạnh mẽ trong nước vừa thúc đẩy, vừa hạn chế những lựa chọn chính sách đối ngoại của cả hai nước. Chính sách đối ngoại hiếm khi được đề cập tới trong chiến dịch tranh cử tổng thống hiện nay của Mỹ, và khi chủ đề này được nói tới, thì trọng tâm chủ yếu vẫn là các biến thể của chủ đề “nước Mỹ trước tiên”. Ở Trung Quốc, ưu tiên hàng đầu của giới lãnh đạo là duy trì sự ổn định chính trị nội bộ, đồng thời thể hiện sự tự tin của một nền văn minh cổ xưa một lần nữa đang trên đà trỗi dậy sau khi chịu đựng gần 2 thế kỷ yếu kém và nhục nhã. Vì vậy, không thể khẳng định chắc chắn rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ quản lý quan hệ song phương dựa trên những tính toán hợp lý về lợi ích quốc gia hay thậm chí cùng mong muốn có được kết quả cùng thắng. Hai nước không nhất thiết đi theo đường lối đối đầu, nhưng cũng không thể loại trừ điều đó.

Những động lực ở châu Á-Thái Bình Dương

Những động lực này sẽ diễn ra trên toàn thế giới, nhưng châu Á-Thái Bình Dương sẽ là một đấu trường quan trọng. Mỹ vẫn luôn có những lợi ích quốc gia sống còn trong khu vực này. Mỹ đã phải tiêu tốn nhân lực và vật lực để đánh bại Nhật Bản trong Chiến tranh Thái Bình Dương – một cuộc chiến suýt nữa đã khiến Mỹ mất đi 3 vị tổng thống tương lai. Mỹ đã tham chiến trong hai cuộc chiến tranh tốn kém ở bán đảo Triều Tiên và Việt Nam, những cuộc chiến đã mang lại thời gian quý báu cho các nước ở châu Á củng cố xã hội và nền kinh tế của họ.

Những chính sách hào phóng và cởi mở của Mỹ, vốn đã làm lợi rất nhiều cho châu Á-Thái Bình Dương, xuất phát từ những lý tưởng chính trị sâu xa và hình ảnh mà Mỹ tự xây dựng về mình như là một “thành phố trên đồi”, “ánh sáng cho mọi quốc gia”, nhưng cũng phản ánh lợi ích được khai sáng của chính nước Mỹ. Một châu Á-Thái Bình Dương ổn định và thịnh vượng trước đây là bức tường bảo vệ các quốc gia thời Chiến tranh Lạnh, và sau này là một khu vực quan trọng trên thế giới, bao gồm nhiều quốc gia ổn định và thịnh vượng hướng về Mỹ. Đối với các doanh nghiệp Mỹ, châu Á-Thái Bình Dương mang lại những thị trường đáng kể và các cơ sở sản xuất quan trọng. Không có gì đáng ngạc nhiên khi châu Á lại là nơi có một vài trong số những đồng minh trung thành nhất của Mỹ, chẳng hạn như Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như một số đối tác lâu đời của Mỹ như Singapore.

Trung Quốc cũng có những lợi ích sống còn trong khu vực. Ở Đông Bắc Á, Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên vẫn còn phủ bóng đen. Trung Quốc nhận thấy ở Đông Nam Á nguồn năng lượng và nguyên liệu thô, các đối tác kinh tế và những tuyến đường liên lạc quan trọng trên biển. Họ cũng nhận thấy những vị trí án ngữ ở eo biển Malacca và Biển Đông phải được giữ trong trạng thái mở nhằm bảo vệ an ninh năng lượng của Trung Quốc. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt quan trọng giữa Trung Quốc và Mỹ, đó là việc Trung Quốc coi châu Á-Thái Bình Dương là “khu vực lân cận bên ngoài”, theo cách nói kiểu Nga, và do đó có vai trò trọng yếu đối với an ninh của chính nước này.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng nói rằng Thái Bình Dương đủ lớn để chứa cả Mỹ lẫn Trung Quốc. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng an ninh châu Á nên do người châu Á quản lý. Câu hỏi đương nhiên sẽ nảy sinh: Tập Cận Bình cho rằng Thái Bình Dương đủ lớn để cả Mỹ và Trung Quốc cùng tồn tại hòa bình, với các nhóm nước bè bạn và đối tác chồng lấn nhau, hay cho rằng Thái Bình Dương đủ lớn để có thể chia làm hai phần tương ứng với hai vùng ảnh hưởng cạnh tranh lẫn nhau của hai cường quốc? Singapore và các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương khác không hề nghi ngờ về cách giải thích mà Trung Quốc ưa thích hơn. Mặc dù có thể không gây được ảnh hưởng lớn tới kết quả cuối cùng, nhưng các nước này tha thiết hy vọng rằng họ sẽ không bị buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc.

Sự hiện diện an ninh của Mỹ vẫn đóng vai trò cốt yếu đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nếu không có Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ buộc phải tính đến việc phát triển vũ khí hạt nhân; cả hai nước đều là quốc gia ở ngưỡng hạt nhân, và vấn đề này vốn đã thường xuyên xuất hiện trong diễn ngôn công khai của họ, đặc biệt là trong bối cảnh năng lực vũ khí hạt nhân của Triều Tiên đang ngày càng gia tăng. Các diễn tiến như vậy may thay vẫn chỉ là giả thuyết, nhưng triển vọng của chúng sẽ không có lợi cho sự ổn định ở Đông Bắc Á cũng như nỗ lực không phổ biến vũ khí hạt nhân trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, Hạm đội 7 của Mỹ đã góp phần duy trì an ninh khu vực kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, đảm bảo các tuyến liên lạc trên biển an toàn và mở cửa, tạo điều kiện cho thương mại và kích thích tăng trưởng kinh tế. Dù sức mạnh quân sự đã gia tăng, Trung Quốc cũng không thể đảm nhận thay vai trò an ninh của Mỹ. Không giống như Mỹ, Trung Quốc có các tuyên bố lãnh thổ và lãnh hải ở Biển Đông, cạnh tranh với một số nước trong khu vực vốn luôn coi sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc là một nỗ lực nhằm thúc đẩy các yêu sách này.

Một trở ngại khác khiến Trung Quốc không thể đảm nhận vai trò an ninh của Mỹ xuất phát từ thực tế rằng nhiều nước Đông Nam Á có các dân tộc thiểu số gốc Hoa, với mối quan hệ nhạy cảm với đa số dân chúng không phải gốc Hoa. Các nước này cực kỳ nhạy cảm về bất kỳ nhận thức nào cho rằng Trung Quốc có ảnh hưởng không nhỏ đối với người gốc Hoa trong nước – đặc biệt gợi nhắc đến sự hỗ trợ của Trung Quốc trong lịch sử đối với các cuộc nổi dậy ở Đông Nam Á cho đến đầu những năm 1980. Sự nhạy cảm này sẽ hạn chế vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề ở Đông Nam Á trong tương lai gần.

Singapore là quốc gia Đông Nam Á duy nhất với dân số đa sắc tộc có phần đông là người gốc Hoa. Trên thực tế, đây là quốc gia chủ quyền duy nhất trên thế giới có nhân khẩu học như vậy ngoại trừ chính Trung Quốc. Tuy nhiên, Singapore đã nỗ lực hết sức nhằm xây dựng một bản sắc quốc gia đa sắc tộc chứ không phải là một dân tộc gốc Hoa. Và họ cũng hết sức thận trọng tránh làm bất cứ điều gì có thể gây hiểu lầm rằng họ muốn biến mình thành tay sai của Trung Quốc. Do đó, phải đến năm 1990, Singapore mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, trở thành nước Đông Nam Á cuối cùng làm điều này, trừ Brunei.

Tất nhiên, Singapore và tất cả các nước châu Á khác đều muốn vun đắp mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Họ hy vọng nhận được sự thiện chí và hỗ trợ của một nước lớn như vậy và góp phần vào sự tăng trưởng của nước đó. Các chuỗi cung ứng toàn cầu – dù là máy bay, điện thoại di động hay khẩu trang y tế – đã kết nối Trung Quốc và các nước châu Á khác với nhau. Tầm vóc to lớn của Trung Quốc đã biến nước này thành đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các quốc gia châu Á khác, bao gồm mọi đồng minh hiệp ước của Mỹ trong khu vực cũng như Singapore và gần như các nước thành viên khác trong ASEAN.

Mỹ sẽ rất khó, hoặc gần như không thể, thay thế Trung Quốc trở thành nhà cung cấp chính trên thế giới, cũng như khó có thể hình dung bản thân Mỹ sẽ ra sao nếu không có thị trường Trung Quốc, vốn là nước nhập khẩu hàng hóa Mỹ lớn thứ ba, sau Canada và Mexico. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng không thể thay thế vai trò kinh tế của Mỹ ở châu Á. Hệ thống tài chính toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào các thể chế tài chính của Mỹ, và đồng nhân dân tệ sẽ không thể thay thế đồng USD để trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới trong tương lai gần. Mặc dù các nước châu Á khác xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều hơn sang Mỹ, nhưng các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ là nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nhiều nước châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Singapore. Các công ty lớn của Trung Quốc đang bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng sẽ mất nhiều năm trước khi Trung Quốc có các tập đoàn đa quốc gia với quy mô và mức độ tinh vi tương tự như các tập đoàn có trụ sở tại Mỹ, vốn liên kết các chuỗi sản xuất toàn cầu lại với nhau, kết nối châu Á với nền kinh tế toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm.

Vì những lý do trên, các nước châu Á-Thái Bình Dương không muốn buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Họ muốn xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với cả hai nước. Họ không thể xa lánh Trung Quốc, và các nước châu Á khác sẽ cố gắng hết sức để không khiến cho bất kỳ tranh chấp nào chi phối các mối quan hệ chung giữa họ và Bắc Kinh. Đồng thời, các nước châu Á này coi Mỹ là một cường quốc lâu đời với các lợi ích sống còn trong khu vực. Họ tỏ ra ủng hộ – một số nước công khai hơn các nước khác – khi Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố rằng Mỹ dự kiến “tái cân bằng” chính sách đối ngoại của Mỹ sang châu Á. Họ tự an ủi rằng mặc dù Chính quyền Trump đã đặt vấn đề chia sẻ chi phí và gánh nặng với các bằng hữu và đồng minh, những nước này cũng đề ra một chiến lược cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và tuyên bố ý định xây dựng Bộ tư lệnh quân sự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ.

Tuy nhiên, các quốc gia châu Á này cũng công nhận Mỹ là một siêu cường toàn cầu, với những mối bận tâm sâu rộng và những ưu tiên cấp bách trên toàn thế giới. Họ thực sự cho rằng nếu căng thẳng gia tăng – hoặc thậm chí tồi tệ hơn, nếu xung đột diễn ra – họ không thể tự động nhận sự hỗ trợ của Mỹ. Họ muốn làm tròn bổn phận của mình để bảo vệ đất nước và các lợi ích của họ. Họ cũng hy vọng rằng Mỹ hiểu nếu các nước châu Á khác thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, thì điều đó không nhất thiết nghĩa là họ đang chống lại Mỹ. (Và tất nhiên, các nước châu Á này hy vọng Trung Quốc cũng hiểu điều tương tự nếu họ tăng cường quan hệ với Mỹ).

Một cấu trúc khu vực đồng bộ

Mỹ và Trung Quốc không phải là hai nước lớn duy nhất có ảnh hưởng lớn trong khu vực; các bên tham gia khác cũng có vai trò quan trọng. Nhật Bản đã đóng góp rất nhiều cho khu vực, xét tới quy mô và mức độ tinh vi của nền kinh tế nước này. Dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản đã đóng góp tích cực hơn trước. Chẳng hạn, sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Nhật Bản đã bước ra đảm nhận vai trò dẫn dắt hiệp định này. Điều đó đã khích lệ 11 nước thành viên còn lại hoàn thành Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), giúp kết nối các nước phát triển và các nước đang phát triển ở hai bờ Thái Bình Dương và là một bước tiến hướng tới thương mại tự do trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Ấn Độ cũng có ảnh hưởng tiềm năng. Dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, Ấn Độ đã tuyên bố một sự thay đổi chiến lược thông qua chính sách Hướng Đông, và các nước khác trông đợi chứng kiến chính sách này được đưa vào thực hiện. Hội nghị cấp cao Đông Á có cả sự tham gia của Ấn Độ với tư cách thành viên vì các nước thành viên khác hy vọng rằng khi nền kinh tế Ấn Độ tăng trưởng, họ sẽ nhận thấy nhiều giá trị hơn trong hợp tác khu vực. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia ban đầu đàm phán thành lập Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), một thỏa thuận thương mại tự do được đề xuất nhằm hợp nhất các nền kinh tế lớn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tương tự như cách Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) (hiện được gọi là Thỏa thuận Mỹ-Mexico-Canada) kết nối các quốc gia ở Bắc Mỹ. Sau các cuộc đàm phán kéo dài, năm 2019, Ấn Độ đã quyết định không tham gia RCEP; 15 nước tham gia còn lại đang tiến tới một điều gì đó quan trọng đã mất từ lâu mà không cần Ấn Độ.

Như hầu hết các quốc gia châu Á đã nhận ra, giá trị của các hiệp định như vậy không chỉ gói gọn trong những lợi ích kinh tế mà chúng mang lại. Đây là những nền tảng cho phép các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương hợp tác với nhau, phát triển lợi ích nhờ vào thành công của một nước khác, và cùng với nhau hình thành cấu trúc khu vực và các quy tắc quản lý khu vực này. Các thỏa thuận khu vực như vậy phải mang tính cởi mở và bao trùm. Dù muốn hay không, chúng cũng không nên loại bỏ bất kỳ bên nào, làm suy yếu các thỏa thuận hợp tác hiện có, tạo ra các khối cạnh tranh với nhau hoặc buộc các nước phải chọn phe. Đây là lý do giải thích vì sao các nước tham gia CPTPP đã để ngỏ cánh cửa cho Mỹ quay trở lại ký kết, và cũng là lý do giải thích tại sao các nước đang nỗ lực lập ra RCEP vẫn hy vọng rằng ngày nào đó Ấn Độ sẽ gia nhập khuôn khổ này.

Đây cũng là cơ sở để các nước châu Á-Thái Bình Dương hỗ trợ các sáng kiến hợp tác khu vực như các khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà Nhật Bản, Mỹ và các nước khác đưa ra, cũng như sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Nhiều nước châu Á khác coi việc hỗ trợ sáng kiến “Vành đai và Con đường” là một cách thức mang tính xây dựng phù hợp với ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Nếu được thực hiện đúng đắn và có kỷ luật tài chính, các dự án trong sáng kiến này có thể tăng cường hợp tác khu vực và đa phương cũng như giải quyết nhu cầu cấp bách về việc cải thiện cơ sở hạ tầng và kết nối tại nhiều quốc gia đang phát triển. Một số dự án như vậy đã bị chỉ trích vì thiếu tính minh bạch hoặc không khả thi, nhưng không có lý do gì để tin rằng tất cả các dự án trong khuôn khổ sáng kiến này, như vẫn thường được hiểu, sẽ mang lại gánh nặng không thể chống đỡ cho các quốc gia hoặc ngăn họ phát triển các liên kết của mình với các nền kinh tế lớn khác. Những hậu quả như vậy cũng sẽ không có lợi cho Trung Quốc vì chúng sẽ làm suy yếu vị thế và tầm ảnh hưởng của nước này trên trường quốc tế.

Việc phát triển các dàn xếp khu vực mới không đồng nghĩa với việc từ bỏ hoặc gạt sang một bên các thể chế đa phương hiện có. Những dàn xếp và thể chế đa phương phải rất khó khăn mới đạt được này tiếp tục mang lại cho tất cả các nước, đặc biệt là các nước nhỏ, một khuôn khổ để cùng hợp tác và thúc đẩy các lợi ích tập thể. Tuy nhiên, nhiều thể chế đa phương hiện thời đang cấp thiết cần được cải cách: chúng không còn hiệu quả, xét tới các thực tiễn kinh tế và chiến lược hiện nay. Chẳng hạn, kể từ khi vòng đàm phán thương mại Uruguay kết thúc năm 1994, WTO đã nhận thấy ngày càng khó có thể đạt được các thỏa thuận thương mại có ý nghĩa, vì bất kỳ thỏa thuận nào cũng đòi hỏi phải có sự đồng thuận từ 164 thành viên, vốn có những lợi ích và triết lý kinh tế rất khác nhau. Và từ năm 2019, Cơ quan phúc thẩm của WTO đã bị tê liệt do thiếu số đại biểu cần thiết theo quy định. Đây là sự tổn hại đối với tất cả các nước, những bên cần làm việc một cách mang tính xây dựng hướng tới cải tổ các tổ chức như vậy thay vì làm giảm tính hiệu quả của chúng hoặc bỏ qua chúng.

Tia hy vọng tha thiết

Các lựa chọn chiến lược mà Mỹ và Trung Quốc đưa ra sẽ định hình đường nét của trật tự toàn cầu đang nổi lên. Các cường quốc cạnh tranh là lẽ tự nhiên. Nhưng khả năng hợp tác của họ mới là bài kiểm tra thực sự cho tài trị quốc, và nó sẽ quyết định liệu nhân loại có đang đạt được tiến bộ hay không trong các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phổ biến vũ khí hạt nhân và sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm.

Đại dịch COVID-19 là một lời nhắc nhở rõ ràng về mức độ quan trọng của việc các quốc gia cần phải hợp tác. Dịch bệnh không phân biệt biên giới quốc gia, và hợp tác quốc tế là điều vô cùng cấp thiết nhằm kiểm soát đại dịch và giảm thiểu tác hại của nó đối với nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả khi mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc tốt đẹp nhất, việc tăng cường phản ứng tập thể trước dịch COVID-19 sẽ là thách thức vô cùng to lớn. Thật không may, đại dịch đang làm trầm trọng thêm sự đối địch giữa Mỹ và Trung Quốc, làm gia tăng sự ngờ vực, cạnh tranh giành thế thượng phong và đổ lỗi cho nhau. Điều này sẽ càng trở nên tồi tệ hơn, và dường như không thể tránh khỏi, nếu đại dịch trở thành một vấn đề lớn trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng tâm điểm của tình huống này sẽ giúp tập trung sự chú ý và nỗ lực thảo luận khôn ngoan hơn.

Trong khi chờ đợi, các nước châu Á đang vô cùng bận rộn ứng phó với đại dịch và nhiều trở ngại khác trong việc cải thiện đời sống người dân và tạo ra một khu vực an toàn và thịnh vượng hơn. Thành công của họ – và viễn cảnh về một thế kỷ của châu Á – sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc liệu Mỹ và Trung Quốc có thể vượt qua các khác biệt giữa họ, xây dựng lòng tin lẫn nhau nhằm duy trì một trật tự thế giới ổn định và hoà bình hay không. Đây chính là một vấn đề căn bản trong thời đại của chúng ta.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG 

Nguồn:vpdf.org.vn Copy link