Góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIII: Vững bước đi lên trong thế giới biến động

VPDF: Kiên trì, kiên định về mục tiêu và con đường đã chọn, đồng thời hết sức tỉnh táo và chủ động, linh hoạt, sáng tạo về giải pháp trong từng vấn đề và tình huống cụ thể chính là nội hàm của “dĩ bất biến ứng vạn biến” để đưa đất nước ta tiếp tục vững bước đi lên trong thế giới đầy biến động ngày nay

 

 

Thời kỳ của những biến động lớn

Thế giới bước vào thập niên 2020 không chỉ “tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường” như trong các giai đoạn vừa qua mà là đang trải qua những biến động hết sức to lớn với những chuyển đổi sâu sắc mang tầm vóc lịch sử. Không vô cớ mà ngày 24/8/2020 vừa qua, tại cuộc họp với các chuyên gia để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm tới, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhận định rằng thế giới đang trải qua những thay đổi sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ và Trung Quốc phải chuẩn bị cho "một thời kỳ biến động hỗn loạn" đã bắt đầu. Và thách thức đang đặt ra chắc chắn không chỉ là đối với riêng Trung Quốc.

Tác nhân trực tiếp thường được đề cập là đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ thì có thể thấy rằng đại dịch này chỉ đẩy nhanh, làm bộc phát và trầm trọng thêm những vấn đề và mâu thuẫn đã và đang tích tụ trên thế giới trong thời gian qua.

Kinh tế thế giới không chỉ lâm vào thời kỳ suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ cuộc Đại Suy thoái 1929-1933 còn đánh dấu sự thất bại của mô hình phát triển theo chủ nghĩa tự do mới (neoliberalism) mà các nước phương Tây ra sức thúc đẩy trên quy mô toàn cầu trong suốt 4 thập kỷ qua. Trên thực tế thì ngay trước đại dịch Covid-19 các nền kinh tế hàng đầu phương Tây như Nhật Bản, Đức đã có biểu hiện suy thoái về kỹ thuật và Mỹ đã được dự báo trước sẽ lâm vào suy thoái trong năm 2020. Vấn đề sản xuất thừa và kinh tế ảo là 2 trong số các nguyên nhân sâu xa từng gây ra cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế 2008-2009 nhưng chưa hề được khắc phục đang tiếp tục gây ra những bất ổn cho kinh tế các nước phương Tây và thế giới.

Bất ổn xã hội nổi lên tại nhiều nước do khoảng cách giàu nghèo doãng cách chưa từng có, tính bấp bênh trong đời sống xã hội lan rộng và lần đầu tiên ngay tại các nước phát triển phương Tây đời sống của thế hệ tiếp theo có xu hướng bị sa sút hơn thế hệ trước.

Môi trường sinh thái bị đe doạ ngày càng nghiêm trọng do hoạt động của con người với các hệ luỵ là tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, đa dạng sinh thái bị huỷ hoại và biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng cực đoan. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, trái đất đứng trước nguy cơ không còn khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất của con người theo phương thức sản xuất và tiêu dùng như hiện nay.

Sự bất mãn trước thực trạng bế tắc kéo dài làm gia tăng khủng hoảng niềm tin vào các thiết chế chính trị hiện hữu, làm bùng phát các phong trào phản kháng xã hội, thúc đẩy sự nổi lên chủ nghĩa dân tuý và các xu hướng cực đoan sắc tộc, tôn giáo, thậm chí cả chủ nghĩa phát xít mới tại nhiều nước phương Tây.

Mô hình “tự do” (liberal) về kinh tế và chính trị từng được tung hô là “không thể thay thế” (There is no alternative – TINA) hay là “tận cùng của lịch sử” (End of History) không chỉ đã bộc lộ rõ những khiếm khuyết nghiêm trọng của nó mà còn cho thấy tính không tương thích của nó đối với sự phát triển bền vững của các xã hội và nhân loại hôm nay.

Sự bế tắc về con đường phát triển đã kích hoạt xu thế lấy kình địch với ngoại quốc là một cách hữu hiệu để phân tán sự chú ý đối với chính trị trong nước – theo Francis Fukuyama, và do đó “Thay vì hợp tác với nhau vì lợi ích chung, các quốc gia lại có những chính sách vị kỷ, kèn cựa nhau và làm những đối thủ trở thành con dê tế thần về phương diện chính trị cho những thất bại của chính họ. Đó là nguyên nhân chính của sự nổi lên của các hình thức chủ nghĩa dân tộc vị kỳ, chủ nghĩa cô lập, chủ nghĩa bảo hộ và tư duy “nước tôi trên hết” đang góp phần làm gia tăng các mâu thuẫn quốc tế.

Trật tự thế giới cũng đang trải qua những biến động lớn với việc Mỹ và các nước phương Tây lâm vào khủng hoảng toàn diện, sức mạnh tương đối bị suy yếu trong khi Trung Quốc ngày càng thu hẹp khoảng cách với siêu cường đứng đầu; trung tâm sức mạnh có xu hướng chuyển dịch từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam; cục diện “đơn cực”, “nhất siêu đa cường” đang rạn nứt và có bước chuyển dịch theo xu thế đa cực hoá; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung, diễn biến ngày càng quyết liệt.

Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung về bản chất là cạnh tranh về vai trò bá chủ toàn cầu và đang diễn ra ngày càng quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực thương mại, tài chính, tiền tệ, khoa học công nghệ, internet và viễn thông, thông tin, ý thức hệ, kiểm soát tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các loại vũ khí chiến lược mới, về ảnh hưởng địa – chính trị và vai trò chi phối tại các tổ chức, thiết chế quốc tế. Trong quan hệ Mỹ - Trung, cạnh tranh chiến lược là tổng thể, toàn diện và lâu dài với các biện pháp đối đầu đan xen với hợp tác trên từng  lĩnh vực, vấn đề và vào từng thời điểm cụ thể; kinh tế và công nghệ là mặt trận chính; ý thức hệ là công cụ bổ trợ; chủ nghĩa dân tộc là nhân tố động lực chính; địa bàn chủ yếu là Ấn Độ - Thái Bình dương với tâm điểm là Đông Á và nhất là Biển Đông. Nhìn chung, so sánh sức mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ tiếp tục thu hẹp hơn, ít nhất là trong ngắn hạn nhưng vẫn còn là ẩn số về dài hạn.

Hệ thống quốc tế được hình thành sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đang bị suy yếu và bộc lộ không ít bất cập. Tiến trình toàn cầu hoá dựa trên “đồng thuận Oa-sin-tơn” do phương Tây dẫn dắt từ những năm 80 nay đã bị chững lại do các chính sách bảo hộ và chiến tranh thương mại, đang bị phân mảnh thành các hình thức tập hợp, liên kết đa dạng giữa các nhóm nước với nhau, trong đó các nước lớn tìm cách thúc đẩy các biện pháp liên kết, tập hợp lực lượng với các quy định, chuẩn mực và nền tảng công nghệ khác nhau. Hệ thống tiền tệ quốc tế có những biến động mới do sự nổi lên của đồng Nhân dân tệ, đồng Euro và sự suy yếu tương đối của đồng USD cùng với xu thế đa dạng hoá phương thức, công cụ thanh toán và sự ra đời của các loại tiền kỹ thuật số. Các chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu sẽ được sắp xếp lại theo hướng phân tách, khu vực hoá và nội địa hoá cao hơn. Hệ thống thương mại quốc tế sẽ tiếp tục có nhiều biến động phức tạp do cạnh tranh thương mại và bảo hộ sẽ gia tăng. Cạnh tranh giành độc quyền về tri thức, về các công nghệ nền tảng, về tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược, về thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ diễn ra ngày càng quyết liệt.

Để giảm thiểu các tác động tiêu cực của khủng hoảng, suy thoái và làm dịu bớt làm sóng phản kháng xã hội, chính phủ các nước phương Tây có thể sẽ có một số điều chỉnh chính sách nhất định nhưng về tổng thể, chủ nghĩa tự do mới vẫn chưa thể bị thay thế do các thế lực cánh hữu và giới tư bản tài chính vẫn tiếp tục chi phối đời sống chính trị tại các nước này (ít nhất là trong ngắn hạn). Vì vậy, những biến động bất ổn về kinh tế, xã hội và chính trị vẫn sẽ tiếp tục diễn ra. tại các nước này và tác động phức tạp đến toàn thế giới trong thời gian tới.

Hoà bình, an ninh thế giới đứng trước những thách thức mới. Chiến tranh thế giới và chiến tranh tổng lực giữa các quốc gia ít có khả năng xảy ra nhưng cạnh tranh chiến lược, đối đầu và nguy cơ xung đột giữa các quốc gia có xu hướng gia tăng trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc ngày càng nổi lên, chạy đua vũ trang có bước leo thang mới tại nhiều khu vực, các hành động đơn phương sử dụng sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế của các cường quốc ngày càng có xu hướng gia tăng. Các hình thức chiến tranh phức hợp, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, chiến tranh mạng, chiến tranh thông tin,…sẽ được chú trọng phát triển và áp dụng. Các thách thức an ninh phi truyền thống sẽ tiếp tục nổi lên ngày càng gay gắt.

Bên cạnh vai trò của các nhà nước, thì các nhân tố phi nhà nước sẽ có vai trò tác động và ảnh hưởng ngày càng lớn đối với an ninh và phát triển của thế giới trong thế kỷ 21.

Sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh việc mở ra những cơ hội mới thì đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới, trong đó có nguy cơ gạt ra bên lề một lực lượng lớn lao động và làm gia tăng khoảng cách phân hoá trong các xã hội và giữa các quốc gia, đồng thời cũng đặt ra những bài toán mới về phương thức tổ chức và quản lý đời sống xã hội trên quy mô toàn cầu.

Trong các biến động lớn đang diễn ra thì cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội, trật tự quốc tế có mức độ nghiêm trọng tương đương với thời kỳ giữa Đại Suy thoái 1929 – 1933 và Chiến tranh thế giới Thứ Hai, còn cuộc khủng hoảng về môi trường sinh thái và những vấn đề do cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra là chưa từng có trong lịch sử tồn tại của nhân loại. Đặc biệt, nhân loại đang đứng trước những thách thức đối với sự tồn vong của toàn thể nhân loại đang nổi lên ngày càng gay gắt gồm vũ khí hạt nhân và biến đổi khí hậu.

Các mâu thuẫn chính đang nổi lên trong thế giới hiện nay gồm:

  • Mâu thuẫn giữa phương thức sản xuất, tiêu dùng vật chất và sinh hoạt của con người hiện nay với khả năng đáp ứng và chịu đựng của môi trường tự nhiên. Đây là vấn đề về phương thức phát triển kinh tế của nhân loại hôm nay trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
  • Mâu thuẫn giữa mức độ xã hội hoá cao độ về đời sống sản xuất, tiêu dùng, văn hoá, thông tin của nhân loại với việc tích tụ, tập trung của cải và độc quyền các công cụ quyền lực chủ yếu (tài chính, công nghệ, thông tin,…) vào tay một thiểu số cá nhân, tập đoàn và quốc gia; giữa nhu cầu và mục tiêu phát triển công bằng, bình đẳng với khoảng cách giàu nghèo và phân hoá xã hội ngày càng gia tăng. Đây là vấn đề về quan hệ sản xuất thời hiện đại.
  • Mâu thuẫn giữa các quyền tự do và lợi ích cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng và xã hội, giữa giá trị vật chất với giá trị văn hoá, đạo đức, giữa giá trị trao đổi với giá trị sử dụng, giữa các giá trị ảo với giá trị đích thực. Đây là vấn đề hệ giá trị trong thời đại hiện nay.
  • Mâu thuẫn giữa nhu cầu giữa nhu cầu dân chủ ngày càng tăng của nhân dân các nước với các thể chế chính trị hiện hữu trên thực tế luôn chịu sự chi phối, thao túng của các tập đoàn và phục vụ cho lợi ích của tầng lớp giàu có. Đây là vấn đề mô hình chính trị.
  • Mâu thuẫn giữa nhu cầu về một thế giới đoàn kết, thống nhất, tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để đối phó với các vấn đề toàn cầu và thách thức chung đang ngày càng gia tăng với các chính sách và hành động đơn phương, bất chấp luật pháp quốc tế của một số nước lớn, sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và sự chi phối tuỳ tiện của các chủ thể xuyên quốc gia, sự suy yếu, bất cập của hệ thống các thiết chế quốc tế hiện hữu. Đây là vấn đề quan hệ và trật tự quốc tế.

Các mâu thuẫn nêu trên chỉ có thể được giải quyết khi các lực lượng tiến bộ, nhân văn thực sự lớn mạnh và có vai trò chi phối trong các xã hội. Nhưng tình hình thực tế hiện nay đang cho thấy một bức tranh hoàn toàn trái ngược: các lực lượng cánh tả tuy có bước phát triển nhất định nhưng vẫn còn không ít hạn chế, lúng túng trong khi các thế lực cánh hữu đang tiếp tục áp đảo và ngày càng có xu hướng cực đoan hơn. Do đó, tình hình thế giới trong thời gian tới sẽ tiếp tục có những biến động phức tạp với tính bất ổn, bất định có xu hướng gia tăng.

 

Châu Á – Thái Bình Dương: tâm điểm bất ổn mới

Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực từng có giai đoạn tương đối hoà bình, ổn định từ sau khi kết thúc các cuộc Chiến tranh Đông Dương. Đây là thời kỳ Trung Quốc thực hiện chính sách “giấu mình chờ thời” để “trỗi dậy hoà bình”  và Mỹ giảm sự hiện diện quân sự tại khu vực bằng cách rút hạm đội 7 ra khỏi Biển Đông và rút khỏi các căn cứ quân sự Subic và Clark tại Philipin. Nhiều quốc gia trong khu vực đã tận dụng có hiệu quả tiến trình toàn cầu hoá theo phương thức riêng,  tập trung phát triển kinh tế - xã hội khá thành công, góp phần đưa khu vực này trở thành đầu tàu tăng trưởng và trung tâm kinh tế ngày càng quan trọng của thế giới. Các nước hiện nay đều có nhu cầu về một môi trường hoà bình, ổn định để hợp tác phát triển vì thịnh vượng chung. Tuy nhiên, tình hình thực tế đang diễn ra đang có xu hướng trái ngược.

Trung Quốc sau 40 năm cải cách, mở cửa đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và trở thành cường quốc hàng đầu về khoa học, công nghệ, quân sự và trên nhiều lĩnh vực khác. Tuy nhiên, cùng với sự lớn mạnh của mình, nhất là từ khi vượt Nhật Bản về kinh tế, Trung Quốc đã dần từ bỏ chính sách “giấu mình chờ thời”, gia tăng ngày càng nhanh chóng sức mạnh quân sự, bộc lộ tham vọng ngày càng lớn và hành động ngày càng quyết đoán bất chấp luật pháp quốc tế để hiện thực hoá các tham vọng đó. Đặc biệt, việc Trung Quốc đưa ra yêu sách vô lý đối với gần toàn bộ Biển Đông và tăng cường đơn phương sử dụng sức mạnh hiện thực hoá yêu sách đó đang thách thức nghiêm trọng chủ quyền hợp pháp của nhiều nước trong khu vực, thách thức luật pháp quốc tế và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, là nguyên nhân chính làm gia tăng căng thẳng, đối đầu và nguy cơ xung đột, đe doạ hoà bình, ổn định tại khu vực này. Để thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông và làm chủ Đông Á, Trung Quốc đưa ra khẩu hiệu “châu Á của người châu Á” và tìm mọi cách nhằm loại bỏ vai trò của Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi khu vực này.

Trước tình hình đó, các chính quyền Mỹ đã lần lượt triển khai các chiến lược “xoay trục”, “tái cân bằng”  và gần đây nhất là “Ấn Độ - Thái Bình Dương” nhằm kiềm chế Trung Quốc. Bản chất của chiến lược “Ấn Độ - Thái Bình dương” của chính quyền Tổng thống Trump hiện nay là đối đầu và cạnh tranh chiến lược toàn diện nhằm ngăn cản Trung Quốc soán ngôi vị số 1 của Mỹ tại châu Á và trên thế giới, trong đó, Biển Đông đã trở thành tâm điểm đối đầu quân sự trực tiếp giữa 2 siêu cường này.

Ngày nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc chạy đua vũ trang mới diễn ra hết sức cấp tập trong khu vực, trong đó, Trung Quốc không chỉ có ngân sách quốc phòng lớn nhất mà còn đang tăng chi phí quốc phòng với tốc độ nhanh nhất so với tất cả các nước khác trong khu vực. Trong khi Trung Quốc không ngừng tăng nhanh sức mạnh hải quân, tăng mạnh hiện diện quân sự và bán quân sự trên biển, đẩy mạnh quân sự hoá Biển Đông thì Mỹ cũng gia tăng quy mô và cường độ hiện diện của hải quân Mỹ tại vùng biển này. Các cuộc tập trận, kể cả bắn đạn thật, được các bên, nhất là Trung Quốc và Mỹ tiến hành dồn dập với quy mô và mật độ ngày càng cao.

Trong khi Mỹ đang ra sức lôi kéo các nước đồng minh và đối tác tham gia hợp lực với Mỹ kiềm chế Trung Quốc thì Trung Quốc cũng tìm cách tập hợp lực lượng ủng hộ mình bằng cách sử dụng cả “cây gậy” và “củ cà rốt”. Nhiều nước khu vực công bố chủ trương “không chọn bên” nhưng trên thực tế thì sức ép phải lựa chọn luôn đặt ra đối với các nước trong nhiều vấn đề cụ thể. Sự đối đầu ngày càng quyết liệt giữa 2 siêu cường hiện đang đặt các nước khu vực vào thế thụ động né tránh hay cùng lắm là “chủ động thích ứng”.

Thực trạng đó cho thấy châu Á – Thái Bình Dương đang đứng trước nguy cơ bất ổn ngày càng cao. Việc các nước lớn tiếp tục tuỳ tiện sử dụng sức mạnh, hành động đơn phương, bất chấp luật pháp quốc tế, gia tăng đối đầu sẽ gây bất lợi chung cho tất cả các nước trong khu vực.

Châu Âu cũng từng là tâm điểm đối đầu giữa 2 phe trong thế kỷ 20. Tuy nhiên, tiến trình Helsinki với kết quả là việc ký kết Hiệp ước Helsinki và thành lập Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) đã ngăn ngừa xung đột, giúp cho khu vực này có được hoà bình trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trong khi châu Á – Thái Bình Dương ngày nay đang trở thành trung tâm kinh tế hàng đầu của thế giới, là địa bàn cạnh tranh chiến lược chính của các nước lớn, là khu vực đang đứng trước nguy cơ bất ổn, xung đột ngày càng cao thì tại đây chưa hề có được một cơ chế hữu hiệu tương tự. Do đó, việc hình thành các thoả thuận và cơ chế an ninh tập thể để xây dựng niềm tin, ngăn ngừa xung đột, duy trì hoà bình, ổn định và hợp tác vì thịnh vượng chung tại khu vực này là một đòi hỏi khách quan, hết sức cần thiết và cấp bách.

Châu Á – Thái Bình dương hiện nay đứng trước 2 lựa chọn sinh tử; một là chấp nhận làm sân chơi của cuộc đua tranh quyền bá chủ giữa các nước lớn với tất cả các hệ luỵ phức tạp, bất an, bất ổn của nó và hai là chủ động kiến tạo các cơ chế, khuôn khổ an ninh tập thể nhằm ngăn ngừa xung đột, duy trì hoà bình, ổn định chung cho toàn khu vực. Trong sứ mệnh này, các nước vừa và nhỏ và nhất là ASEAN có vai trò hết sức quan trọng.

 

Vững bước đi lên trong một thế giới biến động

Việt Nam là một trong số ít nước được coi là thành công nhất trong suốt hơn 3 thập kỷ qua với sức mạnh kinh tế và sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng liên tục và đạt mức chưa từng có; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế quốc tế của đất nước ngày càng cao. Và điều quan trọng nhất là đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện: thế hệ hiện nay có điều kiện sống tốt hơn hẳn thế hệ trước và thế hệ tiếp theo nhiều khả năng sẽ có điều kiện còn tốt hơn nữa. Đó không phải là điều đang diễn ra tại nhiều nước khác, kể cả các nước phát triển, trong cùng thời gian qua. Có được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đó trước hết là nhờ đường lối đổi mới, mở cửa đúng đắn của Đảng ta.

Những thành tựu về ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại trong những năm qua đã biến Việt Nam thành điểm thu hút đầu tư nước ngoài có sức hấp dẫn cao, thành đối tác có quan hệ hợp tác kinh tế hết sức rộng rãi, là bạn tốt của tất cả các nước và là thành viên có uy tín trong cộng đồng quốc tế. Đó là những nhân tố quan trọng đang mở ra thời cơ chiến lược mới cho đât nước ta trong thời gian tới.

Thách thức lớn nhất về an ninh từ môi trường bên ngoài hiện nay đối với chúng ta gồm vấn đề Biển Đông, “diễn biến hoà bình” và sự chống phá của các thế lực thù địch. Thách thức lớn nhất về phát triển là nguy cơ tụt hậu và lệ thuộc về kinh tế, khoa học công nghệ, thông tin, văn hoá. Những biến động nhanh chóng, phức tạp làm gia tăng tính bất định, bất ổn của tình hình khu vực và thế giới cũng đang đặt ra những thách thức mới đối với môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam. 

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác phát triển cùng với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta đã phát huy hiệu quả tích cực trong những năm qua và cần được tiếp tục triển khai một cách kiên định trong thời gian tới. Tuy nhiên phương thức triển khai thực hiện cần có những điều chỉnh, cập nhật phù hợp với tình hình mới để tận dụng có hiệu quả thời cơ chiến lược và hoá giải thành công các thách thức đang nổi lên.

Trong xử lý các vấn đề đối ngoại, cần kiên định mục tiêu nguyên tắc là bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia – dân tộc, theo đó lợi ích quốc gia – dân tộc cần được nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn, bao gồm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; chế độ chính trị, sự ổn định chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; lợi ích kinh tế, đời sống nhân dân, văn hoá và môi trường sinh thái; vị thế và uy tín quốc tế của đất nước.

Trong bối cảnh đối đầu, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chúng ta cần kiên trì phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “là bạn với tất cả các nước”, kiên quyết không “nhất biên đảo”, tiếp tục kiên định nguyên tắc “4 không”. Tuy nhiên, trong khi không “chọn bên” thì phương châm hành động của chúng ta nên là “chọn việc” trên tinh thần sẵn sàng tham gia các hoạt động hợp tác, phối hợp với các nước khác đáp ứng được cả 3 tiêu chí cơ bản gồm phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế và có lợi cho hoà bình, ổn định, phát triển thịnh vượng chung. Và đó cũng nên là phương châm hành động chung của Việt Nam trong xử lý các vấn đề đối ngoại trong giai đoạn tới.

Quan hệ song phương của nước ta đã được mở rộng, đa dạng hoá đáng kể trong thời gian qua, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, trong đó, có 30 nước là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Trọng tâm ưu tiên trong thời gian tới nên chăng là tập trung đi vào chiều sâu, chú trọng làm rõ và tăng cường nội hàm hợp tác thực chất với từng đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước đối tác chiến lược, toàn diện. Trong quan hệ quan hệ đối tác, cần tiếp tục thực hiện triệt để và có hiệu quả hơn phương châm “cầu đồng, tồn dị” để phát huy tối đa mặt tương đồng, hoá giải, hạn chế mặt khác biệt. Trong bối cảnh các nước đều đề cao lợi ích quốc gia, những khác biệt, thậm chí là xung khắc về lợi ích là không thể tránh khỏi trong quan hệ với một số đối tác, nhất thiết đòi hỏi phải đấu tranh. Tuy nhiên, đấu tranh trước hết phải bằng các phương thức hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, dựa trên chính nghĩa, có lý, có tình, giữ gìn được cục diện hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Đồng thời, trong khi kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành động của nước ngoài xâm hại lợi ích – quốc gia dân tộc, chúng ta không nhằm chống nước đó và không có thái độ thù địch đối với nhân dân nước đó.

Đa phương hoá quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế trong thời kỳ thế giới đang bị phân cực, phân mảnh là rất khác so với thời kỳ cả thế giới cùng trong một tiến trình toàn cầu hoá tương đối thống nhất. Mặt khác những biến động đang diễn ra cho thấy có những mô hình và phương thức phát triển, liên kết hiện hữu đang bộc lộ không ít bất cập, suy yếu, không còn phù hợp. Đồng thời, cũng có những hình thức liên kết, tập hợp lực lượng mới đang và sẽ được thúc đẩy nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến lược riêng của các cường quốc đang cạnh tranh, đối đầu nhau. Vì vậy, trong khi đa phương hoá và hội nhập quốc tế nhìn chung cần được tiếp tục thúc đẩy thì việc lựa chọn tham gia cơ chế đa phương nào, hoạt động phối hợp nào cần được tiến hành hết sức cẩn trọng, tỉnh táo trên cơ sở nhất thiết phải đáp ứng được 3 tiêu chí cơ bản nêu trên. Đồng thời, trong bối cảnh đó, yêu cầu về “độc lập, tự chủ” càng cần được nhấn mạnh hơn nữa, trong đó độc lập về chính trị, tự chủ về an ninh và tự chủ trên một số lĩnh vực kinh tế trọng yếu là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước tiếp tục đi lên trong một thế giới đang biến động phức tạp hiện nay. Vì vậy, khái niệm “hội nhập toàn diện” mới được bổ sung tại dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nên được cân nhắc lại hoặc làm rõ hơn cho phù hợp, tránh để hiểu là “cái gì cũng hội nhập” thì sẽ dẫn đến những hệ luỵ không mong muốn.

         Trong thế giới đang biến động phức tạp hiện nay, các nước vừa và nhỏ không nên chỉ dừng ở mức ứng phó với chính sách và hành xử của các nước lớn mà nên chủ động tham gia đóng góp vào quá trình kiến tạo hoà bình và trật tự chung dựa trên luật pháp quốc tế. Trên tinh thần đó, Việt Nam cần phát huy tinh thần “chủ động, linh hoạt, sáng tạo” trong công tác đối ngoại, tiếp tục đề cao chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế, phát huy vai trò tích cực hơn nữa trong ASEAN và các cơ chế đa phương khác có ảnh hưởng quan trọng đối với lợi ích của Việt Nam, chủ động đề ra các sáng kiến nhằm góp phần củng cố, duy trì hoà bình và thúc đẩy hợp tác cùng có lợi vì thịnh vượng chung.

Xử lý vấn đề Biển Đông là vấn đề quan trọng nhất, nhạy cảm nhất và khó khăn nhất đối với nước ta hiện nay, đòi hỏi phải vừa bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, vừa duy trì được môi trường hoà bình, ổn định và cục diện quan hệ đối ngoại thuận lợi để phát triển đất nước. Biển Đông ngày nay cũng đang trở thành tâm điểm hội tụ cả các tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc và các nước ven biển, cả đối đầu, cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung và cuộc đấu tranh chung của cộng đồng khu vực, quốc tế vì hoà bình, ổn định, an toàn và tự do hàng hải, hàng không, tuân thủ luật pháp quốc tế vì vậy, đã trở thành điểm nóng nhất và là thùng thuốc súng nguy hiểm nhất của khu vực. Do đó, hoá giải vấn đề Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế là ưu tiên hàng đầu và là chìa khoá quan trọng nhất để giải toả leo thang căng thẳng, đối đầu và nguy cơ xung đột tại khu vực, tạo điều kiện để tiến tới xây dựng một khu vực Đông Á hoà bình, hợp tác và phát triển. Hoá giải vấn đề Biển Đông không có nghĩa là giải quyết được ngay các tranh chấp lịch sử vốn hết sức phức tạp, khó khăn mà là xây dựng và thực thi được các thoả thuận, quy tắc về ứng xử nhằm giảm thiểu căng thẳng và nguy cơ xung đột, đối đầu, ổn định tình hình, bảo đảm duy trì hoà bình, tự do và an toàn hàng hải, hàng không trên biển và tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia ven biển phát triển kinh tế biển phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.

Một trong những sáng kiến mà chúng ta nên sớm xem xét là chủ động trao đổi với các nước  ASEAN để thúc đẩy việc hình thành cơ chế an ninh tập thể Đông Á dựa trên các cấu trúc an ninh khu vực hiện có do ASEAN làm trung tâm như ARF, ADMM+ và nhất là EAS. Một Hiệp ước về Hoà bình và Hợp tác Đông Á hay về Hoà bình và Hợp tác trên Biển Đông cần và có thể được thúc đẩy thông qua các cơ chế này nhằm quy định các nguyên tắc xử lý tranh chấp, hoạt động quân sự, ngăn ngừa xung đột, bảo đảm và duy trì hoà bình, ổn định, tự do và an toàn hàng hải, hàng không, quản lý và khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái phù hợp với luật pháp quốc tế tại khu vực này. Việc ký kết và thực thi một Hiệp ước như vậy sẽ góp phần đáng kể xây dựng lòng tin, hạn chế chạy đua vũ trang, giảm thiểu căng thẳng và nguy cơ xung đột, có lợi cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực.

Là thành viên nòng cốt trong ASEAN, Việt Nam cần tiếp tục chủ động đóng góp sáng kiến để phát huy hơn nữa trách nhiệm của tổ chức này đối với những vấn đề an ninh và phát triển của khu vực. Hiện nay trong khu vực đã tồn tại Uỷ hội sông Mê Công có nhiệm vụ điều phối hợp tác giữa các nước trên vấn đề sông Mê Công. Tuy nhiên, đối với vấn đề đặc biệt hệ trọng đối với an ninh và phát triển của khu vực là Biển Đông thì ASEAN chưa có được cơ chế phối hợp hành động tương thích. Vì vậy, cần sớm xem xét thúc đẩy hình thành các nhóm công tác (task force) của ASEAN về vấn đề Biển Đông với sự tham gia tự nguyện từ các quốc gia thành viên có liên quan và quan tâm để thường xuyên theo dõi, đánh giá và báo cáo tình hình, đưa ra các khuyến nghị giúp ASEAN có các hành động kịp thời và phù hợp nhằm duy trì hoà bình, ổn định, tự do hàng hải, hàng không và luật pháp quốc tế tại vùng biển quan trọng này.

Kiên trì, kiên định về mục tiêu và con đường đã chọn, đồng thời hết sức tỉnh táo và chủ động, linh hoạt, sáng tạo về giải pháp trong từng vấn đề và tình huống cụ thể chính là nội hàm của “dĩ bất biến ứng vạn biến” để đưa đất nước ta tiếp tục vững bước đi lên trong thế giới đầy biến động ngày nay./.

 

Trần Minh (VPDF) 

Nguồn:vpdf.org.vn Copy link