Trung Quốc: Tính phi pháp và sức mạnh của yêu sách trên Biển Đông (phần 1)

Xin giới thiệu bài viết, của Giáo sư Đại học Quốc gia Úc Leszek Buszynski, được trình bày tại Hội thảo quốc tế: Hoàng Sa – Trường Sa: Sự thật lịch sử.

 

Yêu sách mơ hồ thiếu căn cứ

Yêu sách của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông rất mơ hồ và dựa trên hai cơ sở không chắc chắn. Đầu tiên là đường chữ U hay đường chín đoạn ban hành năm 1947 nhưng đường này lại không được xác định bằng những thuật ngữ pháp lý. Bản thân người Trung Quốc cũng không rõ là đường này thể hiện cái gì và vẫn chưa quyết định về tác dụng pháp lý cùa nó.

Điều thứ hai là tính lịch sử như người Trung Quốc liên tục nói đến những quyền “cổ xưa” để biện minh cho đòi hỏi của mình. Yêu sách rằng khu vực này đã là của Trung Quốc trong quá khứ không thể chứng minh được theo cách mà nó đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý hiện nay. Các đại diện của Bắc Kinh đưa ra khẳng định về “chủ quyền không tranh cãi” đối với Biển Đông không được kiểm chứng.

Trung Quốc: Tính phi pháp và sức mạnh của yêu sách trên Biển Đông (phần 1)
Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đang bị trung Quốc chiếm đóng trái phép

Thiếu một cơ sở pháp lý rõ ràng nên Trung Quốc đang sử dụng các chiến thuật quấy nhiễu để tăng cường đòi hỏi của mình và không may là nó đã làm tăng cái quyền đứng trên pháp luật liên quan đến giải pháp cho tranh chấp. Hành động của Trung Quốc làm tăng căng thẳng và tăng nguy cơ gây ra sự không ổn định trong một vùng chiến lược quan trọng đối với giao thương trong khu vực. Khoảng 48% thương mại của thế giới đi qua Biển Đông, nối Nhật Bản, Hàn Quốc và miền nam Trung Quốc, với Châu Âu và các mỏ dầu ở Trung Đông. Trung Quốc cố tình phá hoại uy danh của Mỹ và nếu Mỹ không phản ứng thì Trung Quốc có thể tiến đến các bước đi liều lĩnh hơn trong tương lại.

Động cơ cho các yêu sách của Trung Quổc

Trung Quốc bị lôi cuốn bởi nhiều động cơ khác nhau trong các thời điểm khác nhau. Đầu tiên đó là mong muốn loại những đối thủ của mình như Pháp, Nhật và sau này là Liên Xô (cũ), ra khỏi một khu vực rất quan trọng đối với giao thương của Trung Quốc, hiện nay cũng như thời các vương triều trước đây. Trung Quốc không đặt ra đòi hỏi đối với Hoàng Sa đến khi Pháp thâm nhập vào khu vực này và gây ra cuộc chiến với Nhà Thanh năm 1884-1885.

Giống như vậy, Trung Quốc không yêu sách đối với quần đảo Trường Sa cho đến khi Nhật và Pháp tranh giành quyền kiểm soát tại khu vực này trong những năm 30. Rất lâu sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975 ảnh hưởng của Liên Xô tại khu vực này được thiết lập và khẳng định tầm quan trọng của việc ngăn chặn các nước thù địch nhảy vào khu vực này và đe dọa miền Nam Trung Quốc.

Thứ hai là các nhà quan sát tranh chấp thường cho rằng có thể giải thích là do dầu lửa và vì vậy nó liên quan đến các yêu sách cạnh tranh với nhau về nguồn hydrocarbon. Dầu lửa trở thành một nhân tố trong tính toán của Trung Quốc khi Philippines năm 1976 lôi kéo một công ty dầu lửa của Thụy Điển bắt đầu khoan dầu trong khu vực Trung Quốc yêu sách. Dầu lửa ở Biển Đông khi đó trở thành quan trọng cho cố gắng hiện đại hóa của Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc đã thổi phồng trữ lượng hydrocarbon ở đó.

Thứ ba là, Biển Đông trở thành một chủ đề cho chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa mà giới lãnh đạo cộng sản Bắc Kinh đã khai thác như một công cụ để hợp thức hóa. Thứ chủ nghĩa dân tộc này là sản phấm của sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và một tình cảm lan truyền là Trung Quốc đã từng chịu đựng sự bất công khi vùng lãnh thổ “bị mất” vào tay các thế lực bên ngoài trong thế kỷ XIX. Việc khôi phục lại vùng lãnh thổ “bị mất” định hướng cho các hành động của Trung Quốc đối với tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư cũng như Biển Đông và hàm ý cho các tranh chấp lãnh thổ khác như biên giới Trung Quốc với Ấn Độ.

Trung Quốc: Tính phi pháp và sức mạnh của yêu sách trên Biển Đông (phần 1)
Đảo Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa

Động cơ thứ tư là Biển Đông quan trọng đối với hải quân Trung Quốc như là một khu vực để triển khai các tầu ngầm hạt nhân chiến lược đang đóng ở căn cứ Tam Á thuộc đảo Hải Nam. Biển Đông là khu vực có độ sâu 2000 mét nước mà tầu ngầm loại Jin trú đậu ở Tam Á có thể được triển khai luân phiên. Biển Đông cũng cung cấp cho các tầu ngầm một lối ra biển cả mà ở đó chúng có thể được điều động tuần tra theo cơ chế thường lệ.

Mỗi động cơ có những tác động khác nhau cho cách giải quyết vấn đề và cho cách cư xử và hành động của Trung Quốc. Nếu việc loại bỏ các thế lực bên ngoài là động cơ chính yếu trong cách thức của Trung Quốc thì giải pháp cho vấn đề sẽ khả thi một khi việc chi phối của thế lực bên ngoài đối với khu vực được ngăn chặn. Nếu hydrocarbon là động cơ chính cho đòi hỏi của Trung Quốc, thì giải pháp hợp tác cùng khai thác sẽ khả thi, một khi các công ty dầu khí của Trung Quốc cũng được tham gia. Nếu đơn giản chỉ là Trung Quốc đòi hỏi có sự chia sẻ đối với nguồn tài nguyền dầu và khí thì một giải pháp công bằng có thể được đàm phán để triệt tiêu tranh chấp và cho phép thực hiện ngay việc khai thác các tài nguyên này.

Việc Trung Quốc không sẵn sàng cân nhắc một giải pháp theo hướng này cho thấy các động cơ khác đang có tác dụng và ngăn chặn đàm phán với các nước yêu sách trong ASEAN trên cơ sở này.

Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối với hải quân có nghĩa là các thế lực bên ngoài phải đế tàu của mình tại căn cứ và không được phép đe dọa các triển khai của hải quân (Trung Quốc) trong khu vực.

Tương tự như vậy, chủ nghĩa dân tộc đòi hỏi phải sáp nhập Biển Đông và đặt tình hình an ninh của nó trong biên giới Trung Quốc. Một khi khu vực này được tuyên bố thuộc lãnh thổ Trung Quốc nó sẽ rất khó cho bất kỳ giới lãnh đạo Trung Quốc nào phải thỏa hiệp với các nước yêu sách khác thuộc ASEAN. Kết quả cuối cùng là Trung Quốc đòi hỏi kiểm soát toàn bộ Biển Đông đế thỏa mãn các động cơ này, và mặc dù giới lãnh đạo có thể cân nhắc phương cách giải quyết tranh chấp nhằm làm giảm căng thẳng thì nó cũng bị các lực lượng trong nước đẩy lên để tìm cách thống trị trong khu vực.

GS Leszek Buszynski 

Nguồn: Thời Đại

Nguồn:vpdf.org.vn Copy link