Nguồn: Hitler becomes dictator of Germany, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1934, sau cái chết của Tổng thống Đức Paul von Hindenburg, Thủ tướng Adolf Hitler đã trở thành nhà độc tài tối cao của Đức dưới danh hiệu Führer hay “Lãnh tụ.” Quân đội Đức sau đó tuyên thệ trung thành với vị tổng tư lệnh mới, và những tàn dư cuối cùng của chính phủ dân chủ Đức đã bị giải thể để nhường chỗ cho Đệ Tam Đế chế của Hitler. Dù ông cam kết với người dân rằng Đệ Tam Đế chế sẽ tồn tại trong một nghìn năm, nhưng nước Đức Quốc xã đã sụp đổ chỉ 11 năm sau đó.
Adolf Hitler sinh ra tại Braunau am Inn, Áo, vào năm 1889. Khi còn trẻ, ông khao khát trở thành một họa sĩ, nhưng lại ít được công chúng biết đến và phải sống trong cảnh nghèo khó ở Vienna. Là người gốc Đức, ông dần căm ghét nước Áo vì là một “quốc gia chắp vá” với nhiều nhóm dân tộc khác nhau, và đến năm 1913, ông quyết định chuyển đến thành phố Munich, bang Bavaria, Đức. Sau một năm lang thang, ông tìm được hướng đi cho mình khi trở thành một người lính Đức trong Thế chiến I, và thậm chí được tặng thưởng huân chương vì lòng dũng cảm trên chiến trường. Năm 1918, thời điểm quân Đức đầu hàng, ông đang nằm ở viện quân y để hồi phục sau một vụ tấn công bằng khí mù tạt khiến ông bị mù tạm thời.
Hitler đã kinh hoàng trước thất bại của người Đức, đổ lỗi cho “kẻ thù bên trong” – chủ yếu là phe cộng sản Đức và người Do Thái – và phẫn nộ trước thỏa thuận hòa bình đầy sự trừng phạt mà phe Hiệp ước đã áp đặt lên đất nước mình. Sau chiến tranh, ông vẫn ở lại trong quân đội, và với vai trò một điệp viên tình báo, ông được lệnh báo cáo về các hoạt động lật đổ trong các đảng phái chính trị ở Munich. Chính trong cương vị này, ông đã trở thành thành viên thứ bảy gia nhập Đảng Công nhân Đức nhỏ bé, bao gồm những cựu chiến binh quân đội cay đắng. Hitler được giao phụ trách công tác tuyên truyền của đảng, và vào năm 1920, ông lên nắm quyền lãnh đạo tổ chức, đổi tên nó thành Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei (Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa), sau này được viết tắt là Nazi.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của đảng mới này chẳng qua chỉ là một chiêu trò nhằm thu hút sự ủng hộ của giai cấp công nhân; trên thực tế, Hitler là một người cực hữu. Nhưng quan điểm kinh tế của đảng đã bị lu mờ bởi chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt của những người Quốc xã, vốn đổ lỗi cho người Do Thái, phe cộng sản, Hiệp ước Versailles, và chính phủ dân chủ yếu kém của Đức là nguyên nhân đã đẩy nền kinh tế đất nước vào cảnh điêu tàn. Đầu những năm 1920, ngày càng có nhiều người Đức bất mãn gia nhập hàng ngũ Đảng Quốc xã của Hitler, đặt trụ sở tại Bavaria. Một tổ chức bán quân sự, Sturmabteilung (Binh đoàn bão táp, SA), đã được thành lập để bảo vệ đảng và đe dọa các đối thủ chính trị của họ. Đảng này cũng chọn chữ Vạn cổ xưa làm biểu tượng của mình.
Tháng 11/1923, sau khi chính phủ Đức khôi phục việc bồi thường chiến tranh cho Anh và Pháp, Đảng Quốc xã đã phát động “Đảo chính Nhà hàng Bia” – một nỗ lực nhằm lật đổ chính phủ Đức bằng vũ lực. Hitler hy vọng rằng cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa của ông ở Bavaria sẽ tạo được tiếng vang đến quân đội Đức đang bất mãn, những người sau đó sẽ giúp ông lật đổ chính phủ ở Berlin. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy đã bị đàn áp ngay lập tức, còn bản thân Hitler bị bắt và bị kết án 5 năm tù vì tội phản quốc.
Bị giam cầm trong pháo đài Landsberg, ông dành thời gian ở đó để viết cuốn tự truyện Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi), một bản thảo đầy những lời cay độc và lan man, trong đó ông mài giũa những quan điểm bài Do Thái và chống Marxist, đồng thời vạch ra kế hoạch chinh phục cho Đảng Quốc xã. Trong cuốn sách được xuất bản thành nhiều tập này, ông cũng đã phát triển khái niệm Lãnh tụ như một nhà độc tài tuyệt đối, người sẽ mang lại sự thống nhất cho người Đức và dẫn dắt “chủng tộc Aryan” đến đỉnh cao của thế giới.
Áp lực chính trị từ Đảng Quốc xã đã buộc chính quyền Bavaria phải giảm án cho Hitler, và ông được trả tự do chỉ sau chín tháng. Tuy nhiên, khi quay trở lại, Hitler đã chứng kiến đảng của mình tan rã. Nền kinh tế trên đà phục hồi càng làm giảm sự ủng hộ của người dân đối với đảng này, và suốt nhiều năm, Hitler đã bị cấm phát biểu tại Bavaria và các nơi khác trên khắp nước Đức.
Sự bùng nổ của Đại Suy thoái năm 1929 đã mang đến một cơ hội mới để Đảng Quốc xã củng cố quyền lực. Hitler và những người ủng hộ ông bắt đầu tái tổ chức đảng này thành một phong trào quần chúng cuồng tín, và nhanh chóng giành được sự ủng hộ tài chính từ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, những người được Đảng Quốc xã hứa hẹn giúp chấm dứt các cuộc đấu tranh của công nhân. Trong cuộc bầu cử năm 1930, Đảng Quốc xã giành được sáu triệu phiếu bầu, đưa họ trở thành đảng lớn thứ hai ở Đức. Hai năm sau, Hitler ra đối đầu Paul von Hindenburg trong cuộc đua giành chức tổng thống, nhưng vị tổng thống 84 tuổi đã đánh bại Hitler nhờ sự ủng hộ của một liên minh chống Quốc xã.
Dù Đảng Quốc xã bị giảm phiếu bầu trong cuộc bầu cử tháng 11/1932, Hindenburg vẫn đồng ý bổ nhiệm Hitler làm Thủ tướng vào tháng 1/1933, với hy vọng Hitler có thể bị khuất phục khi trở thành thành viên nội các. Tiếc thay, Hindenburg đã đánh giá thấp sự táo bạo chính trị của Hitler, và một trong những hành động đầu tiên của vị thủ tướng mới là lợi dụng việc đốt cháy tòa nhà Reichstag (Quốc hội) làm cái cớ để triệu tập tổng tuyển cử. Lực lượng cảnh sát dưới quyền Hermann Goering của Đảng Quốc xã đã đàn áp phần lớn phe đối lập của đảng trước cuộc bầu cử, và đảng này đã giành được đa số sít sao. Ngay sau đó, Hitler đã lên nắm quyền độc tài thông qua các Đạo luật Trao quyền.
Thủ tướng mới ngay lập tức ra lệnh bắt giữ và hành quyết các đối thủ chính trị, thậm chí còn thanh trừng cả tổ chức bán quân sự SA của Đảng Quốc xã trong một nỗ lực thành công nhằm giành được sự ủng hộ từ quân đội Đức. Sau cái chết của Tổng thống Hindenburg vào ngày 02/08/1934, Hitler đã hợp nhất chức vụ Thủ tướng và Tổng thống, đặt dưới danh hiệu mới là Führer. Khi nền kinh tế được cải thiện, sự ủng hộ của người dân đối với chế độ Hitler ngày càng mạnh mẽ, và các nhà tuyên truyền tài ba của ông cũng khéo léo truyền bá tư tưởng sùng bái cá nhân lãnh tụ.
Việc người Đức tái vũ trang và chủ nghĩa bài Do Thái được nhà nước hậu thuẫn đã vấp phải sự chỉ trích từ nước ngoài, nhưng các cường quốc đã không thể ngăn chặn sự trỗi dậy của nước Đức Quốc xã. Năm 1938, Hitler bắt đầu thực hiện kế hoạch thống trị thế giới bằng việc sáp nhập Áo, và một năm sau thì chiếm toàn bộ Tiệp Khắc. Cuối cùng, cuộc xâm lược Ba Lan của Hitler vào ngày 01/09/1939 đã dẫn đến chiến tranh với Anh và Pháp. Trong những năm đầu của Thế chiến II, cỗ máy chiến tranh của Hitler đã giành được một loạt chiến thắng vang dội, chinh phục phần lớn lục địa châu Âu. Nhưng tình thế đã đảo ngược vào năm 1942 trong cuộc xâm lược Liên Xô thảm khốc của Đức.
Đầu năm 1945, quân Anh và Mỹ tiến đến áp sát Đức từ phía tây, còn Liên Xô là từ phía đông, và Hitler buộc phải ẩn náu trong một boongke dưới phủ thủ tướng ở Berlin, đợi chờ thất bại. Ngày 30/04, khi quân Liên Xô chỉ còn cách tổng hành dinh chưa đầy một dặm, Hitler đã tự tử cùng Eva Braun, người tình mà ông đã cưới vào đêm hôm trước.
Hitler đã để lại nước Đức trong cảnh hoang tàn và phải phụ thuộc vào lòng thương xót của phe Đồng minh, những người sau đó đã chia cắt đất nước này và biến nó thành chiến trường chính của cuộc xung đột Chiến tranh Lạnh. Chế độ của Hitler đã tàn sát khoảng sáu triệu người Do Thái và ước tính khoảng 250.000 người Romani (di-gan) trong cuộc diệt chủng Holocaust. Bên cạnh đó, một số lượng không xác định người Slav, người bất đồng chính kiến, người khuyết tật, người đồng tính, và những nhóm người khác bị chế độ này cho là “không thể chấp nhận” cũng bị sát hại một cách có hệ thống. Cuộc chiến mà Hitler gây ra ở châu Âu thậm chí còn cướp đi sinh mạng của nhiều người hơn nữa – gần 20 triệu người chỉ riêng ở Liên Xô. Giờ đây, Adolf Hitler bị cho là một trong những nhân vật phản diện kinh hoàng nhất trong lịch sử.
Theo Nghiên cứu Quốc tế