Nữ điệp viên Philippines biến bệnh phong thành lá chắn đánh lừa phát xít Nhật - Kỳ cuối

Nữ điệp viên Philippines Josefina “Joey” Guerrero không chỉ cung cấp những thông tin thông thường.

 

Kỳ cuối: Từ bệnh phong đến chiến công

Chú thích ảnh
Bà Guerrero nhận huy chương năm 1948. Ảnh: Bảo tàng bệnh viện phong Quốc gia Mỹ

Theo tạp chí Smithsonian (Mỹ), nhiệm vụ của bà Guerrero rất đa dạng. Tại buổi dạ tiệc ở trường đại học lân cận, Guerrero vô tình bắt gặp một lính Nhật biến mất trong chiếc hố sâu – vốn được đồn là hầm tránh bom. Nhưng khi thấy hắn xuất hiện tại một lối khác trong khuôn viên trường, bà nhanh chóng hiểu ra đó là đường hầm bí mật. Một đêm khác, bà lặng lẽ che giấu cả một xe tải chở “lốp xe” – thực chất là thuốc nổ thô sơ. Vài ngày sau, những khối chất nổ ấy đã biến thiêu hủy kho đạn của quân Nhật.

Mùa thu năm 1944, để chuẩn bị cho cuộc tấn công trên bộ vào Philippines, các máy bay ném bom Mỹ đã phá hủy phòng tuyến trọng yếu dọc Vịnh Manila, dựa trên tài liệu do bà Guerrero cung cấp để xác định mục tiêu.

Đến đầu năm 1945, cục diện cuộc chiến ở mặt trận Thái Bình Dương đã xoay chuyển theo hướng có lợi cho phe Đồng minh. Liên quân coi Philippines là cánh cửa cuối cùng dẫn tới đất liền Nhật Bản. Người Nhật cũng nghĩ vậy và họ đã làm mọi cách để gây thương vong, làm chậm bước tiến của phe Đồng minh bằng cách rải mìn, cài bẫy và phá hủy các cây cầu.

Chính bởi vậy, nhiệm vụ cuối cùng và có lẽ cũng là liều lĩnh nhất của bà Guerrero cho lực lượng kháng chiến bắt đầu khi Sư đoàn Bộ binh 37 cấp tốc tiến về Manila. Nữ điệp viên này phải quay ngược gần 13km về phía Nam từ Calumpit mới bắt kịp họ. Khi đưa tấm bản đồ ra, bà khiến viên sĩ quan sửng sốt khi nhận thấy cả một đoạn đường dài bị gài mìn ngay trước mặt đơn vị.

Một trong những lý do khiến sư đoàn Sư đoàn Bộ binh 37 phải vội vã là bởi một nhóm trên 3.700 tù nhân tuyệt vọng đang chen chúc tại Đại học Santo Tomas ở Manila, một số người trong số họ đang chết đói từng ngày. Những tù nhân này đã được giải cứu vào tháng 2/1945.

Giao tranh ác liệt tiếp diễn và đến ngày 4/3/1945, Manila chính thức được tuyên bố giải phóng khỏi phát xít Nhật. Nhưng việc giành quyền kiểm soát Manila không chấm dứt cuộc chiến, vốn vẫn tiếp diễn ở Luzon cho đến khi phát xít Nhật Bản đầu hàng vào ngày 15/8/1945.

Nhật Bản chính thức đầu hàng quân Đồng minh trên tàu USS Missouri ở Vịnh Tokyo vào ngày 2/9/1945. Sự kiện kéo dài 23 phút này đã chấm dứt Chiến tranh Thái Bình Dương, bắt đầu vào ngày 7/12/1941, khi Trân Châu Cảng bị đánh bom. Sự kiện cũng chấm dứt gần 4 năm phát xít Nhật chiếm đóng Philippines.

Sau khi tàn lửa chiến tranh lắng xuống, bà Guerrero lại nhận được tin tức làm thay đổi cuộc đời một lần nữa. Cảnh sát quân sự địa phương đày bà đến trại phong Tala ở Novaliches, cách Manila một giờ lái xe.

Hồ sơ bệnh án của Guerrero mô tả một loạt những đau khổ mà bà đã phải chịu đựng từ năm 1939, bao gồm chảy máu mũi, các vết sưng, đau khớp, sốt và đau dây thần kinh nghiêm trọng. Sau khi trải qua nhiều kinh hoàng của chiến tranh, bà đã viết trong một bức thư: "Tôi đến đây để ở lại và thấy những người bệnh tật, tàn tật, đói khát nằm trên những tấm phản, mảnh rơm trên sàn nhà, mọi thứ đều nhếch nhác".

Bà bắt tay vào việc mua giường bệnh từ Quân đội Mỹ và kêu gọi chú ý đến hoàn cảnh của bệnh nhân phong. Thông điệp của bà Guerrero đã đến được Bệnh viện phong Quốc gia Mỹ ở Louisiana, nơi những người Mỹ đồng cảm bắt đầu thu gom hàng hóa và gửi đến trại phong Tala. Nhờ những nỗ lực của bà, báo chí Philippines đã đăng một loạt phóng sự điều tra, vạch trần điều kiện tồi tệ tại trại phong do nhà nước quản lý.

Bà Guerrero bắt đầu mơ về Bệnh viện phong Quốc gia Mỹ. Vào những năm 1940, Bệnh viện phong Quốc gia Mỹ là nơi có những phương pháp điều trị bệnh phong mới đầy hứa hẹn. Trong gần nửa thế kỷ, bệnh nhân đã được gửi đến cơ sở này để được các nữ tu chăm sóc, thường là cho đến hết đời.

Nhiều người ủng hộ đã vận động hành lang để bà Guerrero được nhận vào Bệnh viện phong Quốc gia Mỹ, viện dẫn những hành động anh hùng thời chiến của bà. Nhưng Đạo luật Di trú năm 1917 cấm người nước ngoài nhập cảnh Mỹ nếu họ mắc bệnh truyền nhiễm hoặc nguy hiểm.

Cuối tháng 5/1948, bà Guerrero được trao huân chương tại trại phong Tala kèm lời tuyên dương ghi rõ bà đã "có công cứu sống nhiều người Mỹ và người Philippines". Chưa đầy hai tuần sau buổi lễ, Bộ trưởng Tư pháp Mỹ khi đó đã cấp phép đặc biệt cho bà Guerrero đi tàu đến Mỹ.

Quá trình điều trị mà bà Guerrero mơ ước mất nhiều thời gian hơn dự kiến khiến bà ở lại Carville cho đến năm 1957. Vụ ly hôn với ông Renato, người mà bà đã không gặp trong nhiều năm, đã được hoàn tất vào tháng 12/1956. Vài tuần sau, bà kết hôn với Alec Lau, một bệnh nhân khác ở Bệnh viện phong Quốc gia Mỹ. Ông Renato từng đưa con gái Cynthia đến thăm bà Guerrero ở trại phong Tala, nhưng thời gian và khoảng cách địa lý đã làm rạn nứt mối quan hệ mẹ con. Cynthia chỉ đến thăm bà Guerrero ở Mỹ một lần.

Dẫu vậy, bà đã tận dụng tối đa quãng thời gian ở Bệnh viện phong Quốc gia Mỹ. Bà tham gia các lớp học, đứng ra tổ chức tiệc Giáng sinh, gia nhập một hội nữ sinh địa phương.

Từ năm 1977, bà Guerrero sống lặng lẽ tại Washington, D.C. Bà trút hơi thở cuối cùng vào năm 1996. Cáo phó của bà Guerrero ghi rằng bà sinh ra ở Manila nhưng không đề cập đến lòng quả cảm thời chiến của bà.

Hà Linh/Báo Tin tức và Dân tộc