Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đang hình thành của chính quyền Trump 2.0

Được truyền cảm hứng bởi Ronald Reagan, chính quyền Trump 2.0 đang mô tả cách tiếp cận của họ đối với khu vực AĐD-TBD là “hòa bình thông qua sức mạnh”, trong đó nhấn mạnh vai trò của năng lực quân sự và khả năng phô diễn sức mạnh nhằm duy trì ổn định và ngăn ngừa xung đột.

Tác giả: Ngô Di Lân & Hoàng Hiền Thương

Vào ngày 31/5/2025, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth đã có bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La, đánh dấu tuyên bố chính sách đầu tiên của chính quyền Tổng thống Donald Trump nhiệm kỳ hai đối với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (AĐD-TBD). Bài phát biểu của ông Hegseth dường như hé lộ một cách tiếp cận mạnh mẽ và quyết liệt hơn của Mỹ đối với khu vực, nhưng đồng thời đặt ra những lo ngại về tác động của cách tiếp cận này đối với cấu trúc an ninh khu vực.

Hòa bình thông qua sức mạnh

Được truyền cảm hứng bởi Ronald Reagan, chính quyền Trump 2.0 đang mô tả cách tiếp cận của họ đối với khu vực AĐD-TBD là “hòa bình thông qua sức mạnh”, trong đó nhấn mạnh vai trò của năng lực quân sự và khả năng phô diễn sức mạnh nhằm duy trì ổn định và ngăn ngừa xung đột. Trên cơ sở đó, cùng với việc xác định rõ “mối đe dọa từ Trung Quốc là có thật và đang đến gần”, cũng như cảnh báo rằng “mọi nỗ lực thôn tính Đài Loan sẽ phải chịu hậu quả tàn khốc”, có thể thấy các động thái gần đây của Mỹ đang hương tới việc tăng cường răn đe nhằm ngăn chặn Trung Quốc thay đổi hiện trạng trong khu vực, đặc biệt thông qua sử dụng vũ lực. Mục tiêu này sẽ được thực hiện thông qua việc cải thiện khả năng hiện diện và can dự quân sự, đồng thời, củng cố một hệ thống đồng minh và đối tác dựa trên nhận thức chung về an ninh.

Không chỉ dừng lại ở lời lẽ cứng rắn, từ đầu năm đến nay, chính quyền Trump 2.0 đã có những chính sách cụ thể để tăng cường đầu tư vào năng lực quốc phòng của Mỹ tại khu vực. Nổi bật trong số đó là việc triển khai hệ thống tên lửa chống hạm di động NMESIS của Thủy quân Lục chiến tới quần đảo Batanes của Philippines trong khuôn khổ tập trận Balikatan 2025 – chỉ cách Đài Loan khoảng 200 km. Đồng thời, Mỹ cũng đã có các hoạt động nâng cao khả năng chiến đấu tại “tiền tuyến”, như tập trận chung, nâng cấp lực lượng Mỹ tại Nhật Bản, thiết lập các cơ chế chia sẻ dữ liệu, và đặc biệt là cải thiện hệ thống hậu cần quân sự tại khu vực thông qua các dự án nằm trong khuôn khổ PIPIR – một cơ chế đa phương nhằm thúc đẩy hợp tác sâu sắc giữa các ngành công nghiệp quốc phòng của Mỹ và 14 quốc gia đối tác.

Song song với đó, chính quyền Trump 2.0 vẫn thúc đẩy củng cố hệ thống đồng minh và đối tác dựa trên nhận thức chung về mối đe dọa an ninh là Trung Quốc. Mỹ khẳng định sẵn sàng hợp tác với các bên có chung tầm nhìn và lợi ích chung đối với hòa bình khu vực, bất chấp các khác biệt về hệ giá trị, nhưng cũng kêu gọi các quốc gia đồng minh trong khu vực tự cải thiện năng lực quốc phòng của mình, đặc biệt là tăng ngân sách quốc quốc phòng. Đồng thời, Mỹ cho thấy sự ưu tiên đối với các cơ chế tiểu đa phương do chính mình thiết lập trong khu vực, bao gồm QUAD, liên minh bốn bên Mỹ – Australia – Nhật Bản – Philippines, và sáng kiến mới liên doanh sản xuất quốc phòng (PIPIR). Những cơ chế này đều phục vụ mục tiêu hình thành một mạng lưới quân sự linh hoạt, đồng nhất cả về mục tiêu và ý chí, sẵn sàng tác chiến phối hợp mà ít phụ thuộc vào các thể chế đa phương lớn hơn trong khu vực.

Những thay đổi đáng chú ý so với nhiệm kỳ đầu tiên

Chiến lược AĐD-TBD của chính quyền Trump 2.0 tiếp tục kế thừa những nền tảng chiến lược cốt lõi từ nhiệm kỳ đầu, bao gồm nhận thức về Trung Quốc như một đối thủ cạnh tranh chính và đánh giá cao tầm quan trọng địa chiến lược của khu vực. Tuy nhiên, điểm khác biệt nổi bật nằm ở cách thức triển khai và tư duy vận hành với cách tiếp cận thực dụng và quyết đoán hơn.

Thứ nhất, thay vì kiềm chế Trung Quốc thông qua khuôn khổ luật pháp và chuẩn mực quốc tế, chính quyền Trump hiện nay ưu tiên các biện pháp răn đe quân sự nhằm thu hẹp không gian hành động của Bắc Kinh trong khu vực. Mục tiêu là “khiến cái giá của chiến tranh trở nên quá cao để hòa bình trở thành lựa chọn duy nhất”. Tư duy này phản ánh một bước chuyển từ răn đe mang tính biểu tượng sang răn đe thực chất, trong đó năng lực sẵn sàng tác chiến đóng vai trò trung tâm. Để hiện thực hóa mục tiêu này, một điều chỉnh then chốt là điều chỉnh cấu trúc hệ thống liên minh theo hướng tăng cường liên kết về công nghiệp quốc phòng nhằm đẩy mạnh hậu cần phục vụ năng lực chiến đấu và củng cố cam kết chiến lược với các đối tác chủ chốt.

Thứ hai, so với Chiến lược AĐD-TBD trong nhiệm kỳ đầu của ông Trump – vốn có trụ cột “thịnh vượng” nhằm thúc đẩy đầu tư và kết nối kinh tế với khu vực – các nội dung về hợp tác kinh tế và phát triển hiện nay vẫn còn tương đối mờ nhạt. Thay vào đó, các biện pháp kinh tế như thuế quan và kiểm soát xuất khẩu công nghệ chủ yếu được sử dụng như công cụ gây sức ép nhằm buộc các quốc gia trong khu vực giảm phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc, từ đó, tái cấu trúc chuỗi cung ứng theo hướng có lợi cho Mỹ, và gia tăng sức ép chọn phe. Đáng chú ý, trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La của ông Pete Hegseth, Mỹ lần đầu tiên cảnh báo công khai về những rủi ro mà các quốc gia có thể đối mặt nếu quá phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc

Cuối cùng, chiến lược AĐD-TBD đang hình thành có khuynh hướng giảm bớt vai trò của các thể chế đa phương truyền thống tại khu vực. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, tuy chưa thực sự đầu tư nhiều song chính quyền của ông Trump vẫn khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN và một số thể chế khu vực như ARF hay EAS trong định hình cấu trúc khu vực. Thế nhưng, đến nay, Mỹ cho thấy sự ưu tiên rõ ràng các liên minh hoặc cấu trúc mà Mỹ giữ vai trò chủ đạo và có khả năng đưa ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Rủi ro cho “nền hòa bình biệt lệ” của khu vực?

Như vậy, có thể thấy Chiến lược Ấn Độ Dương–Thái Bình Dương dưới thời Trump 2.0 nhiều khả năng sẽ tiếp tục mở rộng theo hướng nhấn mạnh răn đe quân sự, cùng cố các cơ chế tiểu đa phương, trong khi đó, kiểm soát công nghệ chiến lược và điều chỉnh quan hệ kinh tế với các đối tác khác. Dù thông điệp chính thức vẫn khẳng định “không tìm kiếm đối đầu”, song cách tiếp cận mang tính ép buộc ngày càng trở nên rõ rệt. Trong khi đó, các công cụ kinh tế và công nghệ – tuy chưa được đề cập cụ thể tại Shangri-La – nhiều khả năng sẽ được tích hợp toàn diện vào Chiến lược AĐD-TBD đang hình thành để củng cố lợi thế vượt trội của Mỹ tại khu vực.

Với cách tiếp cận mới này, dù các đồng minh trong khu vực đã được trấn an về cam kết an ninh của Mỹ, nhưng những rủi ro tiềm tàng đối với hòa bình và ổn định khu vực rất có thể sẽ trở nên rõ rệt hơn. Cần lưu ý rằng, một trong những nền tảng cốt lõi đảm bảo an ninh khu vực AĐD-TBD kể từ cuối Chiến tranh Lạnh cho đến nay là các thể chế đa với vai trò trung tâm của ASEAN.

Nếu Mỹ tiếp tục giảm mức độ can dự vào các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, đồng thời đẩy mạnh thiết lập các khuôn khổ an ninh tiểu đa phương riêng biệt, nền tảng đó có nguy cơ bị suy yếu, từ đó làm gia tăng tính phân mảnh trong cấu trúc an ninh khu vực.

Song song với đó, việc Mỹ gia tăng hiện diện quân sự và răn đe tuyến đầu rất có thể sẽ kéo theo phản ứng đối trọng từ Trung Quốc. Cạnh tranh chiến lược giữa hai bên vì thế sẽ có xu hướng tiếp tục leo thang, và không thể loại trừ khả năng dẫn đến viễn cảnh “răn đe quá mức”. Khi cả Mỹ và Trung Quốc đều không ngừng gia tăng hiện diện quân sự, năng lực tác chiến và thế phòng thủ ở các điểm nóng, nguy cơ xảy ra các sự cố ngoài ý muốn hoặc tính toán sai lầm cũng sẽ lớn dần — từ đó cản trở hợp tác an ninh khu vực và làm gia tăng nguy cơ xung đột.

Theo Nghiên cứu Quốc tế

Các tác giả Ngô Di Lân và Hoàng Hiền Thương hiện công tác tại Viện Nghiên cứu chiến lược ngoại giao – Học viện Ngoại giao Việt Nam.