Nguồn: Suparna Chaudhry, “Why the World Turned on NGOs”, Foreign Policy, 08/09/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Chỉ trong chín tháng, chính quyền Trump đã tàn phá bối cảnh ngành viện trợ phát triển, giải tán Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) và cắt giảm gần như toàn bộ ngân sách viện trợ nước ngoài của Mỹ. Điều này đã gây ra một vấn đề cho các tổ chức phi chính phủ (NGO) làm việc trong lĩnh vực phát triển trên toàn thế giới, làm trật bánh hàng thập kỷ nỗ lực để tăng cường tiếp cận y tế, thực phẩm, giáo dục và quản trị tốt hơn. Ảnh hưởng này tác động không đồng đều ở khắp khu vực Nam bán cầu, nơi các đợt cắt giảm này chắc chắn sẽ làm xói mòn kiến thức tích lũy của các tổ chức và phá vỡ tiến trình phát triển.
Nhưng trong khi các hành động của chính phủ Mỹ đã đặt ra thách thức lớn nhất và bất ngờ nhất cho các nhóm này, thực tế là thời kỳ hoàng kim trong ảnh hưởng của các NGO đã qua từ lâu. Các nguồn doanh thu của các NGO đã cạn kiệt—và không chỉ từ Mỹ. Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Điển và Anh đã bắt đầu rút viện trợ của họ trước khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức lần thứ hai. Năm 2020, Anh đã đóng cửa cơ quan tương đương với USAID, Bộ Phát triển Quốc tế, bằng cách sáp nhập nó với Bộ Ngoại giao. Viện trợ nước ngoài đã giảm khoảng 6 tỷ USD sau vụ sáp nhập, một sự sụt giảm dự kiến sẽ đạt 11 tỷ USD vào năm 2027.
Các xu hướng tương tự có thể thấy trên khắp Tây Âu. Thụy Điển, từng là một trong những quốc gia hàng đầu về viện trợ phát triển tính theo tỷ lệ phần trăm thu nhập quốc dân, đã cắt giảm hơn một nửa ngân sách viện trợ nước ngoài vào năm 2023. Ở Đức, hỗ trợ phát triển ở nước ngoài đã giảm hơn 10% từ năm 2023 đến 2024, với nhiều đợt cắt giảm được dự đoán khi quốc gia này ưu tiên chi tiêu quốc phòng. Tương tự, vào năm 2025, Pháp đã giảm ngân sách viện trợ phát triển của mình gần 40%, tương đương với mức giảm gần 2,3 tỷ euro (khoảng 2,6 tỷ USD). Chính phủ Hà Lan sẽ cắt giảm 2,4 tỷ euro (2,8 tỷ USD) từ ngân sách viện trợ phát triển của mình vào năm 2027, trong khi Bỉ đã công bố giảm 25% ngân sách viện trợ trong năm năm tới.
Đồng thời, sự suy thoái dân chủ toàn cầu và sự trỗi dậy của chế độ độc tài đã tạo ra một môi trường đáng lo ngại cho các NGO. Đối mặt với ít ràng buộc dân chủ hơn, các chính phủ này cũng đang làm xói mòn các chuẩn mực đã hỗ trợ các nhóm này trong phần lớn cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.
Kết quả của những xu hướng này cùng lúc là nhiều NGO trong lĩnh vực phát triển đã phải đột ngột đóng cửa các chương trình và sa thải nhân viên. Ở Ethiopia, Nam Phi và Uganda, nhiều NGO cung cấp điều trị HIV/AIDS, tiêm chủng, và chăm sóc sức khỏe cho các bà mẹ và trẻ em đã sa thải nhân viên hoặc đóng cửa hoàn toàn. Ở Somalia, Tổ chức Cứu trợ Trẻ em đã đóng cửa các trung tâm dinh dưỡng. Ở Honduras và các quốc gia khác, việc cắt giảm các chương trình thực phẩm do Dịch vụ Cứu trợ Công giáo quản lý đã khiến trẻ em không có bữa ăn hàng ngày. Các khoản cắt giảm viện trợ của Mỹ và Anh đã đặc biệt tàn phá các chương trình sức khỏe tình dục và sinh sản cho phụ nữ và trẻ em gái. Cuộc chiến toàn cầu chống lại các NGO có ý nghĩa gì đối với sự phát triển? Và với sự suy thoái của các tổ chức này, liệu viện trợ tư nhân cho các NGO có thể lấp đầy khoảng trống cho người nghèo trên thế giới?
Sau khi Liên Xô tan rã và làn sóng chuyển đổi dân chủ trên khắp Mỹ Latinh, châu Á và Đông Âu, các cơ quan viện trợ phương Tây đã chuyển các nguồn lực đáng kể cho các NGO vào những năm 1980 và 1990. Các NGO đã tăng về số lượng, quy mô và số tiền nhận được và nổi lên như những nhân tố chủ chốt trong phát triển, dân chủ hóa và nhân đạo. Một liên minh các NGO, Chiến dịch Quốc tế Cấm Mìn, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thông qua Công ước Cấm Mìn Sát thương vào năm 1997. Những nỗ lực của họ đã giúp họ giành giải Nobel Hòa bình cùng năm đó. Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới đã giành giải thưởng ngay sau đó, vào năm 1999, để ghi nhận công việc nhân đạo tiên phong của mình. Năm 1997, Jessica Mathews, người mà năm đó sẽ trở thành chủ tịch của Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, đã mô tả một “sự dịch chuyển quyền lực”, trong đó các NGO trở thành bên trung gian quyền lực cùng với các chính phủ trong chính trị toàn cầu.
Các tổ chức này trong lĩnh vực phát triển được coi là có năng lực hơn và ít có khả năng lạm dụng và kém hiệu quả do quan liêu hơn so với các chính phủ. Năm 1996, Liên Hợp Quốc đã bắt đầu chương trình Đổi dầu lấy Lương thực để cho phép Iraq bán đủ dầu trên thị trường thế giới để đổi lấy lương thực và thuốc men nhằm làm dịu cú sốc của các lệnh trừng phạt sau Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Nhưng nhà lãnh đạo Iraq Saddam Hussein đã kiếm được hàng tỷ USD thông qua tham nhũng và buôn lậu dầu bất hợp pháp, làm tăng thêm nhận thức rằng việc chuyển viện trợ trực tiếp cho các chính phủ có nguy cơ các quan chức bỏ túi tiền viện trợ cho bản thân. Các sự cố như thế này đã khiến các chính phủ không còn thích việc chuyển giao trực tiếp, và thay vào đó một lượng viện trợ nước ngoài ngày càng tăng được chuyển đến các NGO phát triển trong nỗ lực giảm nghèo đói, bệnh tật và nạn đói toàn cầu. Các NGO quốc tế cũng trở thành những nhà cung cấp quan trọng viện trợ nhân đạo sau các cuộc xung đột sắc tộc và diệt chủng ở Balkan và Rwanda.
Tuy nhiên, vào đầu những năm 2000, các NGO lớn bắt đầu gặp khó khăn trong việc hoạt động ở quy mô lớn hơn trong khi vẫn duy trì các liên hệ và đầu vào từ cơ sở đã góp phần vào những thành công ban đầu của họ. Sự phát triển của các NGO quốc tế đã làm dấy lên những lo ngại về mức độ trách nhiệm của các nhóm này đối với các cộng đồng mà họ phục vụ, vì người dân địa phương cảm thấy bị loại trừ khỏi việc thiết lập chương trình, thực hiện và đánh giá các chương trình của NGO.
Những người khác chỉ trích sự mất cân bằng quyền lực vốn có trong công việc của họ, làm dấy lên lo ngại rằng các nhóm này có thể đang tái tạo lại các hệ thống phân cấp toàn cầu. Hầu hết các NGO quốc tế đều có trụ sở tại khu vực Bắc bán cầu, với các NGO phát triển có ảnh hưởng như BRAC—có trụ sở tại Bangladesh—là một ngoại lệ hơn là một quy tắc. Kết quả là, các NGO lớn có thể thu hút được nguồn tài trợ đáng kể, nhưng điều này sẽ lấy đi nguồn vốn từ các tổ chức dân sự và nhu cầu địa phương. Sau trận động đất năm 2010 ở Haiti, sự bão hòa của các NGO quốc tế trong nước và sự thiếu vắng bất kỳ cơ chế phối hợp nào đã khiến các nhóm này lặp lại hoạt động của nhau. Những lo ngại tương tự cũng xuất hiện trong các thảm họa tự nhiên khác, nơi các NGO và lĩnh vực viện trợ được coi là làm choáng ngợp phản ứng của địa phương.
Để đáp lại những lời chỉ trích này, các NGO đã thực hiện các hành động để thiết lập và tăng cường tính minh bạch tài chính, trách nhiệm giải trình và khả năng đáp ứng yêu cầu của họ. Một số đã tái tổ chức với các sáng kiến địa phương hóa, trao quyền ra quyết định cho các cộng đồng địa phương. Nhưng các chính phủ trên khắp thế giới tiếp tục thách thức tính hợp pháp của các NGO. Họ lập luận rằng các nhóm này mang tính tinh hoa và thúc đẩy các chương trình nghị sự của nước ngoài và những phản đối chính trị đảng phái. Những tuyên bố như của cựu Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell—người đã tuyên bố vào năm 2001 rằng “các NGO là một công cụ khuếch trương sức mạnh rất lớn cho chúng ta”—đã không làm dịu bớt những lo ngại của một số nhà lãnh đạo nước ngoài về các nhóm này là đảng phái.
Các cuộc cách mạng màu sau đó đã làm tăng sự thù địch của các nhà lãnh đạo này đối với các NGO. Tổng thống Nga Vladimir Putin, chẳng hạn, nhấn mạnh rằng phương Tây đã dàn xếp các cuộc biểu tình và thay đổi chế độ ở Gruzia, Kyrgyzstan và Ukraine thông qua sự hỗ trợ của các NGO và nhà hoạt động địa phương. Trong khi các công trình học thuật tranh luận liệu sự hỗ trợ dân chủ của Mỹ và sự hỗ trợ của các NGO Mỹ có đóng vai trò nổi bật trong việc thay đổi chế độ ở các quốc gia này hay không, các nhà lãnh đạo trong khu vực đã không lãng phí thời gian để đi đến kết luận rằng phương Tây đang sử dụng các NGO như vũ khí chính trị. Những tuyên bố như thế này đã mở đường cho cuộc đàn áp toàn cầu đối với các NGO—và một nhận thức về sự vượt quá giới hạn của họ đã được các nhà lãnh đạo trên khắp thế giới đón nhận. Ví dụ, vào năm 2016, Tổng thống Ecuador lúc đó là Rafael Correa đã lập luận rằng các chính phủ nước ngoài đang sử dụng các NGO để lật đổ nền dân chủ.
Ngày nay, hơn 130 quốc gia đã áp chế các NGO, nhiều quốc gia thông qua các biện pháp hành chính. Một cuộc đàn áp hành chính sử dụng luật pháp để tạo ra các rào cản đối với việc gia nhập, tài trợ và vận động. Năm 2012, chính phủ Nga đã buộc các tổ chức nhận tài trợ nước ngoài và tham gia vào “các hoạt động chính trị” phải đăng ký là “đặc vụ nước ngoài”. Việc chỉ định này buộc các nhóm phải tuân theo các yêu cầu tài chính nặng nề và đặt họ dưới sự giám sát của chính phủ. Tương tự, vào năm 2010, các nhà lập pháp Ấn Độ đã sửa đổi Đạo luật Đóng góp Nước ngoài, cho phép chính phủ nhắm mục tiêu vào các tổ chức phi lợi nhuận có “bản chất chính trị”. Cả Nga và Ấn Độ đều không đinh nghĩa rõ ràng từ “chính trị”.
Gần đây hơn, vào năm 2024, bất chấp phản ứng dữ dội của công chúng, Gruzia đã thông qua một luật yêu cầu các NGO phải đăng ký là “theo đuổi lợi ích của một thế lực nước ngoài” nếu họ nhận được hơn 20% tài trợ từ các nguồn nước ngoài. Tháng 4 này, chính phủ Gruzia đã đưa ra các hình phạt hình sự, bao gồm cả án tù, đối với những cá nhân từ chối đăng ký là đặc vụ nước ngoài.
Hiệu ứng răn đe của các luật này không chỉ giới hạn ở các nhóm hỗ trợ nhân quyền, tự do truyền thông, vận động chính trị hoặc thúc đẩy dân chủ. Ở Ấn Độ, Đạo luật Đóng góp Nước ngoài đã cản trở phản ứng của nhiều NGO phát triển trong làn sóng biến thể delta chết người của đại dịch COVID-19 vì nó cấm chuyển các quỹ từ các nhà tài trợ lớn hơn hoặc các NGO quốc tế cho các tổ chức cơ sở. Nó cũng áp đặt mức trần 20% đối với chi phí hành chính rút ra từ các quỹ nước ngoài, cản trở khả năng của các tổ chức trong việc thuê thêm nhân viên trong trường hợp khẩn cấp. Khi chính phủ Ấn Độ không gia hạn giấy phép và đăng ký của Oxfam vào năm 2022, nó đã cản trở việc cung cấp bình oxy, máy thở và thực phẩm cho các cộng đồng dễ bị tổn thương.
Trong khi đó, các tác nhân quốc tế đã gặp khó khăn trong việc tổ chức một chiến dịch mạch lạc để ngăn chặn sự đàn áp như vậy. Điều này một phần là do ngay cả trong chính quyền Trump đầu tiên, chính phủ Mỹ đã bắt đầu định vị các NGO như một kẻ thù văn hóa. Vào tháng 6 năm 2018, Nikki Haley, đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc vào thời điểm đó, đã đổ lỗi cho việc Mỹ rút khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc là do các NGO. Trong khi đó, các nền dân chủ phương Tây như Úc và Ý bắt đầu hình sự hóa và hạn chế các NGO làm việc với người di cư. Ở New Zealand, Greenpeace đã mất tư cách từ thiện do các hoạt động chính trị của mình, chỉ được khôi phục sau một quyết định của Tòa án Tối cao có lợi cho họ. Ở Canada, các NGO môi trường, đặc biệt là những người phản đối các đường ống dẫn dầu được đề xuất, phải đối mặt với việc bị truy tố tăng lên. Các chính phủ độc tài không còn là những người duy nhất hạn chế các NGO. Các nền dân chủ, lo sợ các nhóm này thách thức lợi ích kinh tế của họ và đặt câu hỏi về các chính sách phát triển và công nghiệp hóa của họ, cũng bắt đầu phản đối.
Kết quả là, diễn ngôn xung quanh các NGO đã thay đổi đáng kể so với sự lạc quan của những năm 1990. Tháng 7 này, Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio đã đề cập đến “phức hợp công nghiệp NGO trải dài toàn cầu” mà, theo ông, có rất ít tác dụng kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Và sau sự thay đổi trong các ưu tiên chính sách đối ngoại của các cường quốc phương Tây lớn, các NGO phát triển phải đối mặt với những thách thức thậm chí còn lớn hơn. Hỗ trợ phát triển ở nước ngoài của các quốc gia tài trợ hàng đầu trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đã giảm hơn 7% vào năm 2024. Một số chính phủ đã rút lui do các điều chỉnh chiến lược ưu tiên lợi ích quốc gia như chi tiêu quốc phòng hơn là viện trợ nước ngoài. Những người khác làm như vậy do áp lực tài chính và thâm hụt ngân sách. Để đáp lại các khoản cắt giảm đáng kể đối với viện trợ phát triển, các nhà tài trợ tư nhân đã tăng cường. Nhưng liệu những tác nhân mới này có thể đảm bảo rằng chương trình của các NGO tiếp tục mà không bị cắt giảm thêm? Và điều đó có ý nghĩa gì đối với lĩnh vực phát triển nếu các NGO đồng thời mất quyền tiếp cận các quỹ và sự hỗ trợ của nhà nước và ngày càng phụ thuộc vào các tác nhân phi nhà nước?
Tại Mỹ, một số nhóm, bao gồm các quỹ Mellon, Skoll và MacArthur, đã cam kết lấp đầy khoảng trống do mất viện trợ nước ngoài vào tháng 3 và tháng 4. Những nhóm khác đã tăng cường hỗ trợ khẩn cấp và quỹ bắc cầu để ngăn chặn sự gián đoạn đối với công việc của các tổ chức tuyến đầu. Tuy nhiên, các quỹ được các quỹ này cam kết chỉ là một phần nhỏ của ngân sách viện trợ nước ngoài của Mỹ—hàng triệu, thấp hơn nhiều so với ngân sách hàng năm điển hình của USAID là khoảng 40 tỷ USD.
Các quỹ và hoạt động từ thiện tinh hoa không phải là nguồn tài trợ duy nhất cho các NGO này. Hoạt động từ thiện cá nhân cũng có thể có tiềm năng giữ cho các tổ chức này tồn tại. Nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng đối với những cá nhân đã quyên góp cho các tổ chức phi lợi nhuận, việc tìm hiểu về môi trường NGO bị đàn áp sẽ làm tăng sự hào phóng của họ. Ngoài ra, những cá nhân thường xuyên tình nguyện và tin tưởng các thể chế có nhiều khả năng duy trì sự hỗ trợ của họ cho các NGO quốc tế phải đối mặt với sự chỉ trích hoặc đàn áp ở nước ngoài. Hơn nữa, nghiên cứu thực nghiệm của tôi với Marc Dotson và Andrew Heiss cho thấy rằng trước các cuộc đàn áp pháp lý và nỗ lực của chính phủ nhằm bôi nhọ các NGO, các hành động cụ thể của các nhóm này có thể ngăn chặn việc giảm hỗ trợ từ các nhà tài trợ cá nhân, với các NGO được coi là minh bạch về tài chính và có trách nhiệm giải trình nhận được sự hỗ trợ liên tục từ các cá nhân ở nước ngoài.
Mặc dù phản ứng ngắn hạn của các quỹ và kết quả nghiên cứu về hoạt động từ thiện cá nhân có thể đầy hứa hẹn, nhưng viện trợ phát triển trước đây được nhiều nền kinh tế toàn cầu lớn cung cấp có thể không dễ dàng được thay thế bằng các nguồn khác. Hỗ trợ phát triển chính thức do Mỹ cung cấp thường lên tới hơn 60 tỷ USD hàng năm. Quỹ Cầu nối Viện trợ Nước ngoài đã kết thúc, với những nghi ngờ về việc huy động một lượng vốn bổ sung đáng kể. Và theo báo cáo Global Philanthropy Tracker mới nhất, 32 quốc gia có thu nhập cao đã đóng góp hơn 70 tỷ USD vào hoạt động từ thiện xuyên biên giới vào năm 2020. Mặc dù điều này cạnh tranh với số tiền viện trợ của Mỹ, nhưng việc phối hợp các quỹ này từ rất nhiều quốc gia sẽ là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, và không rõ tổ chức nào sẽ đảm nhận vai trò đó. Viện trợ tư nhân cũng sẽ không thể thay thế chuyên môn, quy mô hoặc khả năng thiết lập chương trình nghị sự đi kèm với viện trợ của chính phủ.
Để đối phó với những gián đoạn trước đây trong viện trợ (đặc biệt là thông qua quy tắc kìm hãm toàn cầu của Mỹ, ngăn cản các NGO nước ngoài cung cấp dịch vụ phá thai hợp pháp hoặc giới thiệu nhận viện trợ), các NGO đã liên hệ với các đối thủ địa chính trị để tránh gián đoạn hoạt động của họ. Việc rút viện trợ nước ngoài hiện tại mở ra cánh cửa cho Trung Quốc, quốc gia đã cung cấp hỗ trợ phát triển thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường của mình. Tuy nhiên, Trung Quốc thường tránh các NGO, thay vào đó nuôi dưỡng các mối quan hệ chặt chẽ với các chính phủ nước ngoài như một cách để thúc đẩy các chuẩn mực quản trị của chính Trung Quốc, bao gồm việc nhấn mạnh chủ quyền nhà nước.
Nếu kỷ nguyên của các NGO thực sự sắp kết thúc, thì những tác động sẽ rất tàn khốc đối với các cộng đồng dễ bị tổn thương, đặc biệt là ở khu vực Nam bán cầu. Nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phi dân chủ, thường khoan dung với các NGO phát triển vì các dịch vụ mà họ cung cấp. Việc gia tăng luận điệu chống NGO ở cả cánh tả và cánh hữu, và các chính phủ tài trợ phương Tây cắt giảm viện trợ, có nghĩa là các NGO phát triển có thể phải đối mặt với một không gian dân sự thậm chí còn hẹp hơn. Các chính phủ đàn áp có thể trở nên táo bạo hơn nữa để ban hành các luật hạn chế—những luật làm suy yếu các NGO vận động và phát triển như nhau.
Theo Nghiên cứu Quốc tế
Suparna Chaudhry là phó giáo sư về các vấn đề quốc tế tại trường Lewis & Clark và là tác giả của cuốn sách sắp ra mắt “Civil Societies, Uncivil States: State Repression”.