Tấn bi kịch từ chiến lược tẩy não xã hội của nhà nước Israel

Quá trình tẩy não xã hội không chỉ làm người dân Israel mất đi khả năng đồng cảm với người Palestine mà còn gây tổn thương chính cho họ, khi sự lệ thuộc vào nỗi sợ hãi và cảm thức nạn nhân khiến họ không thể tưởng tượng ra một tương lai chung sống hòa bình, bình đẳng và công bằng.

 

Trong thời đại thông tin toàn cầu, các nhà nước hiện đại không chỉ dùng vũ lực để duy trì quyền lực và thực thi chính sách, mà còn dựa vào một công cụ vô hình nhưng đầy sức mạnh: tuyên truyền. Tại Israel đương đại, hệ thống tuyên truyền nhà nước đã phát triển thành một mạng lưới phức tạp, thâm nhập sâu vào giáo dục, truyền thông, chính trị, văn hóa đại chúng và quan hệ quốc tế. Mục tiêu của hệ thống này không chỉ là củng cố bản sắc dân tộc Do Thái mà còn nhằm định hình nhận thức xã hội, chính danh hóa chính sách chiếm đóng, triệt tiêu tư tưởng phản biện và hợp lý hóa sự phân biệt đối xử đối với người Palestine. Quá trình đó, theo nhiều học giả và nhà hoạt động nhân quyền, đã tạo nên một cơ chế “tẩy não xã hội” – nơi mà nhận thức tập thể bị điều kiện hóa bởi những câu chuyện lịch sử chọn lọc, những hình ảnh định kiến và một môi trường dư luận bị kiểm soát.

Một trong những trụ cột của tuyên truyền nhà nước Israel là giáo dục. Ngay từ cấp tiểu học, học sinh Do Thái được giáo dục về lịch sử dân tộc qua lăng kính tập trung vào thảm họa Holocaust, hành trình lưu vong và sự “trở về vùng đất hứa” với tư cách là một sứ mệnh lịch sử thiêng liêng. Trong các sách giáo khoa chính thống của Israel, người Palestine thường không được đề cập với tư cách là một dân tộc có chủ quyền hoặc quyền lịch sử gắn bó với vùng đất mà họ sinh sống. Các khu vực bị chiếm đóng như Bờ Tây hoặc Đông Jerusalem được mô tả bằng các tên gọi Kinh Thánh Do Thái như “Judea” và “Samaria”, làm lu mờ thực tế địa chính trị hiện đại. Bằng cách này, cả một thế hệ người Israel được hình thành trong môi trường tri thức thiên lệch, nơi mà người Ả Rập xuất hiện như một nhóm gây hấn, thù địch hoặc “trở ngại hòa bình”.

Truyền thông đại chúng Israel, phần lớn do các tập đoàn tư nhân thân chính phủ kiểm soát hoặc có quan hệ mật thiết với giới quân sự và chính trị, tiếp tục duy trì mô hình tuyên truyền này thông qua cách đưa tin chọn lọc. Các vụ tấn công của người Palestine thường được mô tả bằng các cụm từ như “khủng bố”, “cuồng tín”, hoặc “đe dọa an ninh quốc gia”, trong khi bối cảnh của sự chiếm đóng, tịch thu đất đai hoặc bạo lực của quân đội Israel hiếm khi được phân tích một cách toàn diện. Người Israel do đó tiếp cận thực tế bằng một hệ thống hình ảnh một chiều, nơi mà nỗi sợ hãi thường trực bị nuôi dưỡng và sử dụng để biện minh cho chính sách quân sự hóa xã hội. Những hình ảnh về người lính Israel “tử thủ”, “bảo vệ gia đình” hay “hy sinh vì đất nước” được khắc họa thường xuyên trên truyền hình, sách thiếu nhi, áp phích đường phố và các chương trình giáo dục quân sự trong trường học.

Một yếu tố then chốt khác của hệ thống tẩy não xã hội là quá trình bình thường hóa chiến tranh và quân sự trong đời sống hàng ngày. Nghĩa vụ quân sự tại Israel là bắt buộc với cả nam và nữ, và quân đội được xem như một biểu tượng đạo đức, một “bàn tay thiêng” bảo vệ dân tộc Do Thái. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em Israel đã tham gia các hoạt động ngoại khóa gắn với quân đội, được thăm các căn cứ, gặp gỡ “anh hùng chiến tranh” và thậm chí chơi các trò chơi mô phỏng chiến đấu. Văn hóa đại chúng, từ phim ảnh đến âm nhạc, liên tục tái hiện hình tượng người lính như người hùng bi tráng, che đậy hoàn toàn vai trò của quân đội trong việc kiểm soát và đàn áp người Palestine. Hệ quả là toàn bộ xã hội dần dần chấp nhận các hành vi bạo lực như một phần tất yếu của sự tồn tại, mất đi khả năng phản tư về luân lý và công lý.

Cùng lúc đó, bộ máy tuyên truyền cũng nhắm đến việc bóp nghẹt những tiếng nói phản biện. Các học giả, nhà báo, nghệ sĩ hoặc tổ chức nhân quyền nội địa nếu chỉ trích chính sách của chính phủ dễ dàng bị quy chụp là “chống quốc gia” hoặc thậm chí là “tự ghét chính mình” – một thuật ngữ thường dùng để miêu tả người Do Thái phản đối chủ nghĩa Zion. Những cá nhân như Ilan Pappé, Gideon Levy hay Amira Hass từng bị công kích dữ dội, cô lập khỏi giới truyền thông chính thống và chịu áp lực xã hội lớn. Trong không gian quốc tế, Israel cùng các nhóm vận động hành lang như AIPAC hay ADL còn tích cực sử dụng khái niệm “bài Do Thái” để chống lại mọi lời chỉ trích từ bên ngoài, kể cả khi những chỉ trích đó dựa trên chuẩn mực nhân quyền hoặc luật pháp quốc tế. Sự nhập nhằng giữa “phê phán Israel” và “thù ghét người Do Thái” là một công cụ tuyên truyền mạnh mẽ, khiến nhiều tổ chức quốc tế và truyền thông phương Tây e ngại lên tiếng.

Tuyên truyền nhà nước ở Israel còn vươn xa tới lĩnh vực công nghệ, với việc chính phủ và các công ty công nghệ cao hợp tác để giám sát dư luận, kiểm soát mạng xã hội và phát tán thông tin có định hướng. Các chiến dịch “hasbara” – thuật ngữ Hebrew chỉ hoạt động tuyên truyền quốc gia – được tổ chức bài bản, sử dụng sinh viên, nhà hoạt động và người dùng mạng xã hội để tạo ra làn sóng dư luận thân chính phủ, chống lại các phong trào ủng hộ Palestine như BDS (Boycott, Divestment and Sanctions). Trên các nền tảng như Twitter hay Facebook, nhiều tài khoản ẩn danh do quân đội vận hành được sử dụng để gieo rắc thông tin sai lệch hoặc tấn công người bất đồng chính kiến, tạo nên một môi trường truyền thông số đầy rủi ro cho tự do biểu đạt.

Tất cả những cơ chế kể trên đã tạo nên một xã hội nơi mà sự thật lịch sử và thực tế nhân đạo bị bóp méo hoặc che giấu bởi những huyền thoại dân tộc, những hình ảnh được kiểm soát và một môi trường tư tưởng đóng kín. Quá trình tẩy não xã hội không chỉ làm người dân Israel mất đi khả năng đồng cảm với người Palestine mà còn gây tổn thương chính cho họ, khi sự lệ thuộc vào nỗi sợ hãi và cảm thức nạn nhân khiến họ không thể tưởng tượng ra một tương lai chung sống hòa bình, bình đẳng và công bằng. Nếu không được tháo gỡ, hệ thống tuyên truyền này sẽ tiếp tục làm sâu sắc hơn hố ngăn cách giữa các dân tộc, duy trì chiến tranh như trạng thái thường trực và ngăn cản bất kỳ tiến trình hòa giải nào có thể xảy ra.

REDSVN.NET