Nguồn: Alex Gilbert và Morgan D. Bazilian, “The Seabed Is Now a Battlefield”, Foreign Policy, 04/06/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ đang bị đe dọa nghiêm trọng trên biển. Trong phần lớn thế kỷ trước, ưu thế hải quân của Mỹ đã củng cố khuôn khổ an ninh hàng hải hợp tác cần thiết để xây dựng một nền kinh tế toàn cầu thịnh vượng.
Điều này không còn đúng nữa. Phiến quân Houthi đang tiến hành một chiến dịch được nhà nước hậu thuẫn nhằm phá vỡ tự do hàng hải ở Biển Đỏ. Tại Biển Đông, Trung Quốc phớt lờ luật pháp quốc tế, đơn phương đưa ra các yêu sách lãnh thổ mới và thực hiện các hành động gây hấn. Băng biển tan chảy đang mở đường cho Bắc Cực, nơi một nước Nga đang trỗi dậy tận dụng lợi thế tàu phá băng (cả loại chạy bằng năng lượng thông thường và hạt nhân) để đối chọi với sự hiện diện yếu ớt của Mỹ. Quy tắc cơ bản nhất của luật hàng hải, rằng các tàu phải treo cờ của một quốc gia, đang bị phá vỡ khi các quốc gia bị cô lập tìm cách né tránh lệnh trừng phạt, làm trầm trọng thêm những thách thức hiện có liên quan đến các cờ đăng ký phương tiện giả.
Khi tình hình bất ổn địa chính trị gia tăng trên biển và dưới biển, chính đáy biển đã nổi lên như một mặt trận mới cho sự cạnh tranh toàn cầu. Một sắc lệnh hành pháp gần đây từ Tổng thống Donald Trump càng nâng cao mức độ khẩn cấp của an ninh đáy biển, một phần là để đáp trả những động thái chiến lược gần đây của Trung Quốc trong ngành công nghiệp khai thác đáy biển non trẻ. Mỹ đã báo hiệu một sự thay đổi chiến lược: đáy đại dương không còn là một mặt trận “thụ động” mà là một lĩnh vực tranh chấp, nơi sự cạnh tranh tài nguyên, an ninh cơ sở hạ tầng và năng lực quân sự hội tụ.
Trong hai thập kỷ qua, tiến bộ công nghệ nhanh chóng đã thay đổi tính khả thi của các chiến dịch dưới đáy đáy biển. Việc thương mại hóa các phương tiện điều khiển từ xa và sự ra đời của các phương tiện dưới nước tự hành giờ đây cho phép thực hiện các nhiệm vụ chính xác, hiệu quả về chi phí ở hầu hết mọi độ sâu đại dương.
Được thúc đẩy một phần bởi nhu cầu khoan nước sâu của ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi, các công nghệ liên quan như hệ thống định vị động đã phát triển thành các công cụ công nghiệp đáng tin cậy. Trong khi đó, hàng thập kỷ nỗ lực lập bản đồ khoa học và phối hợp của chính phủ đã mang lại chi tiết chưa từng có về địa lý đáy biển.
Dưới những con sóng, chiến tranh dưới biển đã trở thành hiện thực, làm trầm trọng thêm sự bất ổn ngày càng tăng trên bề mặt biển. Trên khắp châu Âu và Thái Bình Dương, Nga và Trung Quốc đang đi tiên phong trong việc phá hoại đường ống và cáp, một hình thức chiến tranh vùng xám nhằm hoàn thiện các chiến thuật cho cuộc xung đột siêu cường trong tương lai. Như Đô đốc James Stavridis đã viết, “trong khi chúng ta chắc chắn cần xem xét những thách thức mà Trung Quốc đặt ra trên bề mặt Biển Đông, chúng ta cũng cần nhìn xuống những vực sâu mờ mịt dưới đáy biển.”
Bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu đáy biển do đó là một ưu tiên mới nổi của NATO và Mỹ. Bên cạnh những hành động khác, sắc lệnh hành pháp của ông Trump đã gây tranh cãi khi khôi phục Đạo luật Tài nguyên Khoáng sản Rắn dưới Đáy biển, ban đầu được thông qua vào năm 1980 và cho phép Mỹ đơn phương khai thác các khoáng sản quan trọng ở biển cả trái với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Sắc lệnh hành pháp nói rằng các vật liệu đó rất cần thiết cho cả quốc phòng và chuyển đổi năng lượng.
Đáy biển hiện là một đấu trường tích cực của cạnh tranh tài nguyên. Ba loại tài nguyên chính dưới đáy biển có thể đáp ứng được nhu cầu khoáng sản ngày càng lớn của quốc gia và toàn cầu. Nguồn tài nguyên gần nhất với việc phát triển là các nốt đa kim loại của Vùng Clarion-Clipperton (CCZ) giữa Hawaii và Mexico, một khu vực nằm ngoài quyền tài phán của Mỹ. Nằm sâu hơn 4.000 mét dưới mực nước biển, các nốt này có thể cung cấp niken, coban, đồng và mangan—tất cả đều cần thiết cho cả mục đích dân sự và quân sự. Tiền lệ về hoạt động và pháp lý từ việc khai thác nốt đa kim ban đầu sẽ quyết định việc quản lý các tài nguyên đáy biển khác, từ các khoáng sản thiết yếu như đất hiếm đến bạc, vàng và bạch kim.
Theo UNCLOS, việc quản lý khoáng sản ở các khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia thuộc về Cơ quan Đáy biển Quốc tế (ISA). ISA đã thiết lập một chế độ tạm thời cho phép các quốc gia thành viên bảo trợ các thực thể thương mại để thăm dò khoáng sản, với gần hai chục hợp đồng như vậy đã được cấp. Trung Quốc nắm giữ nhiều hợp đồng thăm dò của ISA hơn bất kỳ quốc gia nào khác, kể cả ở CCZ.
Tuy nhiên, ISA đã chậm trễ trong việc thiết lập một chế độ khai thác, ngăn cản việc khai thác thương mại các tài nguyên đáy biển.
Trong bối cảnh thiếu khuôn khổ của ISA, các quốc gia không kiên nhẫn hiện đang chuyển sang các cơ hội khai thác ở vùng biển nội địa, thường không có hướng dẫn quốc tế về các tiêu chuẩn môi trường. Quần đảo Cook là một trong những quốc gia như vậy; đầu năm nay, quốc đảo này đã đạt được thỏa thuận chiến lược với Trung Quốc để cùng phát triển tài nguyên đáy biển, khiến Washington gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Mỹ đã không phê chuẩn UNCLOS, do những phản đối lâu dài của Thượng viện đối với các điều khoản khai thác đáy biển của hiệp ước. Do đó, Mỹ không thể hợp pháp hóa việc cấp phép của ISA, và sự không chắc chắn về pháp lý đã cản trở sự phát triển của một ngành công nghiệp trong nước.
Sắc lệnh hành pháp về khoáng sản ngoài khơi mới thay đổi điều này với một số hành động, phần lớn không gây tranh cãi. Thứ nhất, nó tuyên bố rằng việc khai thác khoáng sản ngoài khơi là quan trọng đối với lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia của Mỹ, cụ thể là đối với an ninh khoáng sản quan trọng. Thứ hai, nó đẩy nhanh khai thác khoáng sản ngoài khơi thông qua cấp phép nhanh hơn, đổi mới công nghệ và các nỗ lực thiết lập chế biến trong nước và dự trữ khoáng sản. Và cuối cùng, nó chống lại sự thống trị của Trung Quốc bằng cách mở rộng quan hệ đối tác quốc tế và định vị vai trò lãnh đạo của Mỹ trong thăm dò và phát triển khoáng sản đáy biển toàn cầu.
Với đầu tư tập trung, sắc lệnh này có thể giúp Mỹ trở thành một nhân tố quan trọng trong chuỗi cung ứng kim loại năng lượng và quốc phòng trong vòng một thập kỷ. Một báo cáo gần đây của RAND cho thấy một ngành công nghiệp khai thác đáy biển do Mỹ dẫn đầu có thể sản xuất đủ niken và coban để đáp ứng nhu cầu trong nước dự kiến vào năm 2040.
Tuy nhiên, sắc lệnh hành pháp cũng ngầm tái khẳng định quyền tài phán của Mỹ trong việc cho phép khai thác ở vùng biển quốc tế theo luật pháp trong nước. Điều này sẽ cho phép các công ty Mỹ né tránh ISA đang đình trệ và bắt đầu khai thác nốt đa kim ở CCZ trong vòng vài năm. Động thái tiến vào khai thác ở CCZ như vậy là cực kỳ gây tranh cãi.
Vấn đề pháp lý chính là liệu quyền hạn của ISA có cấu thành luật tập quán quốc tế ràng buộc Mỹ hay không, khi nước này chưa chính thức phê chuẩn UNCLOS; có những lập luận ủng hộ và phản đối quan điểm này. Nhiều quốc gia đã lên tiếng phản đối cách tiếp cận đơn phương, và những phản đối đó không nên bị bác bỏ nhanh chóng. Cần phải thực hiện thẩm định để tạo điều kiện thuận lợi cho các nỗ lực khai thác đáy biển của Mỹ.
Cuối cùng, cuộc tranh luận đang nảy sinh này là một tranh chấp pháp lý mà những hệ lụy và cách giải quyết của nó không nhất thiết phải đe dọa luật biển. Thay vì làm leo thang căng thẳng, Mỹ nên khẳng định cam kết của mình đối với một cách tiếp cận minh bạch, dựa trên khoa học, hợp tác nhằm củng cố các chuẩn mực về đáy biển, đồng thời vẫn bảo vệ các lợi ích của Mỹ.
Thông qua hợp tác ngoại giao khéo léo và quan hệ đối tác chiến lược để giúp các quốc gia khác phát triển tài nguyên ngoài khơi trong nước có thể củng cố vị thế của Mỹ về quyền tự do trên biển. Những nỗ lực như vậy phải nhấn mạnh rằng các mối đe dọa thực sự đối với trật tự hàng hải dựa trên luật lệ là chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc, hành động phá hoại của Nga và sự xói mòn nhanh chóng của các chuẩn mực hàng hải bởi các tác nhân nhà nước và phi nhà nước thù địch.
Đáy biển là nền tảng của cơ sở hạ tầng viễn thông toàn cầu và đang ngày càng được nhận diện là một điểm yếu. Hơn 600 cáp viễn thông dưới biển, nhiều cáp thuộc sở hữu của các công ty công nghệ Mỹ, tải hầu hết lưu lượng internet của thế giới. Cũng giống như chiến tranh công khai từ phiến quân Houthi (được hậu thuẫn bởi vũ khí Iran và tình báo Trung Quốc) đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với quyền tự do hàng hải kể từ Thế chiến II, cơ sở hạ tầng dưới biển như vậy cũng đang đối mặt với mối đe dọa ngày càng tăng.
Các tác nhân nhà nước đang thăm dò những kẽ hở pháp lý và vận hành dưới đáy biển nhằm thử nghiệm ngưỡng phản ứng và giành lợi thế bất đối xứng. Trong hơn hai năm qua, Nga và Trung Quốc đã tiến hành các chiến dịch bí mật nhằm cắt đứt cáp ngầm và phá vỡ các mối liên kết khu vực, thường sử dụng những biện pháp có thể chối bỏ như cố ý kéo neo từ các tàu mang danh nghĩa thương mại. Những nỗ lực này ít nhất một phần là để đáp trả cáo buộc Ukraine liên quan đến vụ nổ đường ống dẫn khí Nord Stream 2 vào năm 2022.
Trung Quốc gần đây đã công khai khánh thành một thiết bị cắt cáp chuyên dụng. Rất có thể nó được thiết kế để cắt đứt liên lạc giữa Mỹ với các đồng minh Thái Bình Dương và cô lập Đài Loan trong một tình huống khẩn cấp ở Đài Loan. Các tàu của Nga cũng có khả năng cắt đứt các mối liên kết chiến lược tương tự. Việc cô lập thế giới tự do trong giai đoạn đầu của một cuộc xung đột toàn cầu có thể làm tê liệt cả toàn dân và khả năng phản ứng chiến lược.
Chính trong bối cảnh này mà mối quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc với Quần đảo Cook, bắt đầu vào năm 2018 và mở rộng sang khai thác đáy biển vào đầu năm 2025, lại đáng lo ngại đến vậy. Các khoáng sản biển của Quần đảo Cook nằm trực tiếp trên các cáp viễn thông kết nối Mỹ với Úc và New Zealand.
Tương tự, chỉ là vấn đề thời gian trước khi các đối thủ tìm cách phá vỡ các nỗ lực khai thác đáy biển của Mỹ. Báo cáo RAND đã đề cập ở trên bao gồm một khảo sát các chuyên gia chính phủ và công nghiệp cho thấy một số lo ngại an ninh đáng kể đối với ngành công nghiệp mới, bao gồm bảo vệ các tàu (treo cờ Mỹ hoặc không) thực hiện các hoạt động khai thác đáy biển hợp pháp, hoặc vận chuyển các khoáng sản quan trọng của Mỹ từ các địa điểm đó; thực thi các yêu sách và quyền khai thác đáy biển; sử dụng các hoạt động dưới đáy biển làm vỏ bọc để nhắm mục tiêu vào tàu ngầm hoặc cáp và can thiệp vào nhận thức về địa vực biển; và nạn cướp bóc khoáng sản trong vùng biển của đồng minh, chẳng hạn như những gì được cho là đang xảy ra ở Papua New Guinea.
Tất cả những nỗ lực này đang được thúc đẩy bởi công nghệ, cụ thể là bộ ba trí tuệ nhân tạo, máy bay không người lái hàng hải chi phí thấp và năng lực đáy biển. Cuộc chiến giữa Nga và Ukraine đã minh họa rõ ràng sự thống trị của chiến tranh hiện đại bởi các nền tảng máy bay không người lái—hạm đội Biển Đen hùng mạnh một thời của Nga đã bị làm cho tê liệt bởi các máy bay không người lái trên không tương đối rẻ và các tàu mặt nước không người lái.
Chiến tranh bằng máy bay không người lái hiện đang chuyển xuống dưới bề mặt biển khi các quốc gia áp dụng các phương tiện dưới nước tự hành và các loại mìn thông minh dưới biển. Có khả năng tái tạo các năng lực tàng hình của tàu ngầm có người lái với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ, những tiến bộ không ngừng về công nghệ tự hành hứa hẹn sẽ thay đổi hoàn toàn xung đột hàng hải. Hoạt động riêng lẻ, các công nghệ này có thể phục vụ nhiều nhóm nhiệm vụ khác nhau, từ trinh sát cho đến các cuộc tấn công động năng. Khi kết hợp với mạng lưới âm thanh dưới biển hoạt động liên tục, nguồn năng lượng có thời gian hoạt động dài và hệ thống liên lạc dưới nước, các phương tiện tự hành đáy biển có thể vừa đe dọa vừa củng cố uy thế của phe đồng minh dưới lòng biển.
Đáy biển do đó đang trở thành một lĩnh vực quân sự tích cực.
Cũng giống như chúng ta giám sát quỹ đạo để tìm vũ khí chống vệ tinh và bầu trời để tìm khinh khí cầu giám sát, chúng ta giờ đây phải giám sát phương tiện không người lái dưới nước, các hoạt động đáy biển và các nền tảng giám sát. Việc đối thủ sử dụng các chiến thuật “vùng xám” cố tình làm mờ ranh giới giữa vô hại và có hại, đòi hỏi một học thuyết rõ ràng về nhận thức, răn đe và phòng thủ địa vực đáy biển.
Cùng với không gian, đáy biển phải được coi là lĩnh vực chiến lược tiếp theo. Điều đó có nghĩa là xây dựng một chiến lược phòng thủ đáy biển toàn diện cung cấp khả năng răn đe hiệu quả trên bốn trụ cột: thành lập một Bộ Tư lệnh Đáy biển hoặc Lực lượng Đặc nhiệm Liên hợp, kết hợp với lĩnh vực khoa học của Cơ quan Đại dương và Khí quyển Quốc gia (NOAA), các chiến dịch của Hải quân và nhiệm vụ công nghiệp của Bộ Thương mại thành một đơn vị phối hợp duy nhất; đầu tư vào năng lực nhận biết và năng lực xác định nguồn gốc dưới đáy biển như một chiến lược tương tự với giám sát quỹ đạo hoặc hạ tầng mạng; bảo vệ các bên khai thác đáy biển được cấp phép của Mỹ và các đồng minh, cáp ngầm, cùng các cơ sở hạ tầng trọng yếu khác thông qua năng lực pháp lý, ngoại giao, và khi cần thiết, năng lực phòng thủ; và thu hút các đồng minh tham gia định hình các cơ chế quản trị đáy biển chung nhằm khôi phục trật tự, thúc đẩy quản trị dựa trên khoa học, đẩy lùi sự can thiệp trong vùng xám và tạo điều kiện đổi mới công nghệ chung.
Nhìn chung, những nỗ lực này phải bao gồm việc phát triển các lợi thế công nghệ, đặc biệt là trong việc tận dụng những tiến bộ về công nghệ tự hành hàng hải chi phí thấp.
Chương trình nghị sự hàng hải rộng lớn hơn của chính quyền Trump đang cố gắng định hình lại cách Mỹ tiếp cận biển. Từ các cảng biển, đường ống dẫn cho đến các nốt kết đa kim, chính sách của Mỹ giờ đây công nhận đại dương là một đấu trường mang tầm quan trọng về công nghiệp và chiến lược. Giống như Thủy quân lục chiến đang tái cơ cấu cho xung đột trên biển khắp các đảo Thái Bình Dương, lực lượng tác chiến dưới đáy biển của Mỹ và đồng minh phải chuẩn bị cho một kiểu cạnh tranh đáy biển mới.
Trong bối cảnh thiếu vắng cơ chế thực thi toàn cầu hiệu quả, đáy biển đang trở thành một khoảng trống mà các cường quốc đang chạy đua để chiếm lĩnh. Bằng cách kiên quyết theo đuổi một lộ trình hợp pháp, minh bạch và dựa trên các tiêu chuẩn để đảm bảo an ninh đáy biển, được lồng ghép vào chiến lược hàng hải rộng lớn hơn của mình với các đồng minh như NATO, Mỹ có thể củng cố trật tự dựa trên luật lệ.
Theo Nghiên cứu Quốc tế
Alex Gilbert là nghiên cứu viên tại Viện Payne thuộc Trường Khai thác Mỏ Colorado và là người đồng sáng lập SparkLibrary.
Morgan D. Bazilian là giám đốc Viện Payne và là giáo sư chính sách công tại Trường Khai thác Mỏ Colorado.