Là cháu ngoại của chí sĩ Phan Châu Trinh, một trong những nhà yêu nước lớn của Việt Nam đầu thế kỷ 20, người khởi xướng phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục. Chính di sản tinh thần từ ông ngoại đã ảnh hưởng sâu sắc đến con đường cách mạng của bà sau này. Từ trẻ, bà đã sớm tham gia cách mạng, hoạt động tích cực trong phong trào Việt Minh tại Sài Gòn; từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giữ và giam cầm tại nhà tù Chí Hòa ở Sài Gòn. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bà đã trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập năm 1960, bà được Ban Thống nhất đề cử tham gia hoạt động Ngoại giao cho Mặt trận. Từ đó, thế giới bắt đầu biết đến Nhà Ngoại giao Nguyễn Thị Bình, người sẽ để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Ngoại giao Việt Nam.
Hội nghị Paris và cuộc đấu tranh trên mặt trận không tiếng súng
Cuối năm 1968, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn quyết liệt nhất, bà Nguyễn Thị Bình được giao trọng trách làm người đứng đầu Phái đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời được thành lập vào tháng 6 năm 1969, bà được cử làm Bộ trưởng Ngoại giao. Với cương vị này, bà không chỉ là Trưởng đoàn đàm phán mà còn là gương mặt nữ tiêu biểu nhất đại diện cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc lựa chọn bà Nguyễn Thị Bình đứng đầu Phái đoàn đàm phán của Mặt trận không phải là ngẫu nhiên mà thực sự là một nước cờ chiến lược của Bộ Chính trị và Bác Hồ. Trong khi phía Mỹ và dư luận phương Tây luôn tuyên truyền về Việt Cộng là những người chưa văn minh, gầy gò, giữ tợn…, thì người đại diện cho cách mạng miền Nam xuất hiện tại Paris lại là một phụ nữ duyên dáng, mặc áo dài truyền thống, nói tiếng Pháp trôi chảy, với phong thái điềm tĩnh nhưng đầy sức thuyết phục.
Hội nghị Paris là một cuộc đàm phán dai dẳng, một “trận chiến quyết liệt như những keo vật không dứt giữa các kỳ phùng địch thủ” như chính bà đã mô tả. Tại Paris, bà Nguyễn Thị Bình đã cùng cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy tạo thành “Bộ ba Thương lượng” xuất sắc của ta, thu hút nhiều chú ý và thiện cảm của dư luận thế giới. Giới truyền thông quốc tế trìu mến gọi bà là “Madam Bình”, và hình ảnh của bà còn xuất hiện trên những chiếc áo phông của các nhà hoạt động giải phóng phụ nữ Mỹ, khiến bà trở thành “Che Guevara phiên bản nữ của Việt Nam” trong mắt những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới. Một nhóm nghệ sĩ nữ cấp tiến ở New York từ những năm 1970 đến 1980 thậm chí đã đặt tên nhóm của mình là “Madam Binh Graphics Collective” để tưởng nhớ bà, chuyên sáng tác các áp phích và nghệ thuật đường phố ủng hộ Việt Nam.
Trên bàn đàm phán, bà Nguyễn Thị Bình đã thể hiện tài năng Ngoại giao xuất chúng. Bà luôn duy trì thái độ kiên định về nguyên tắc, đồng thời linh hoạt trong phương pháp, khéo léo kết hợp giữa đàm phán với vận động quốc tế. Nhiều câu trả lời của bà với giới truyền thông quốc tế đã trở thành huyền thoại, luôn toát lên sự thông minh, nhanh trí và bản lĩnh vượt trội. Còn nhớ, khi một phóng viên phương Tây hỏi bà có phải là đảng viên Cộng sản không, bà đã khôn khéo trả lời: “Tôi thuộc Đảng yêu nước”, khiến người hỏi không thể phản bác. Khi được hỏi về sự hiện diện của quân đội miền Bắc ở miền Nam, bà khẳng định: “Nhân dân Việt Nam là một, nhân dân Việt Nam ở miền Bắc cũng như ở miền Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống kẻ xâm lược”. Và câu nói nổi tiếng nhất của bà, khi trả lời về viễn cảnh kết thúc cuộc chiến, đã làm rung chuyển dư luận Mỹ và quốc tế: “Người Mỹ có thể lên Mặt Trăng và trở về an toàn, nhưng khi đến Việt Nam, chúng tôi không chắc họ có thể trở về được như vậy!”.
Giữa những cuộc đối đầu căng thẳng trên bàn đàm phán, bà vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh, thanh lịch nhưng cũng rất cương quyết. Một nhà ngoại giao Pháp đã mô tả bà như một “người phụ nữ nhảy múa giữa bầy sói” - bị vây quanh tại bàn đàm phán bởi các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, lão luyện đại diện cho nước Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhưng bà vẫn giữ vững lập trường và bảo vệ lợi ích dân tộc một cách xuất sắc. Ông Luc, một nhà báo Pháp, đã nhớ lại: “Tôi nhớ rõ gương mặt xinh đẹp của bà Nguyễn Thị Bình. Bà đã chinh phục trái tim người Pháp bằng lòng can đảm, sự kiên trì và trí tuệ của mình”.
Công việc của bà Nguyễn Thị Bình không chỉ giới hạn trong phòng đàm phán ở giữa thủ đô nước Pháp. Khoảng thời gian giữa các kỳ họp là một khối lượng công việc khổng lồ và đầy căng thẳng mà bà phải giải quyết. Bà phải tổ chức họp báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế, đi khắp châu Á, châu Âu, châu Phi để vận động ủng hộ cho cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam Việt Nam. Bà đã trực tiếp lãnh đạo và thực hiện các hoạt động Ngoại giao nhân dân, xây dựng mạng lưới quan hệ quốc tế với hơn 40 quốc gia và tổ chức quốc tế tiến bộ trên khắp 5 châu. Bà đã trực tiếp tham dự nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, diễu hành, qua đó đưa cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân miền Nam Việt Nam đến gần hơn với thế giới, góp phần tạo nên một làn sóng quốc tế ủng hộ ngày càng mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh giải phống của nhân dân Việt Nam.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được chính thức ký kết. Bà Nguyễn Thị Bình là một trong bốn đại diện cao cấp cho 4 bên tham gia Hội nghị ký tên vào bản Hiệp định lịch sử này, và cũng là người phụ nữ duy nhất trong 4 đại diện cao cấp đó. Khoảnh khắc đặt bút ký đã khiến bà vô cùng xúc động: “Đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris lịch sử tôi rất xúc động nghĩ đến miền Nam, nghĩ đến đồng bào, đồng chí, đến gia đình, bạn bè trên cả hai miền Nam – Bắc. Khi nhớ đến những người không còn ở đây để biết về sự kiện này, tôi không cầm được nước mắt” - bà đã viết như thế trong hồi ký của mình. Hiệp định Paris đã đánh dấu một chiến thắng Ngoại giao vĩ đại, mở đường cho việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những đánh giá từ bạn bè và đối thủ quốc tế
Sự nghiệp Ngoại giao của bà Nguyễn Thị Bình đã nhận được sự ghi nhận và ngưỡng mộ không chỉ từ Đảng, Nhà nước và đồng bào cả nước mà còn từ bạn bè quốc tế, thậm chí cả từ những người từng là đối thủ. Trong mắt các nhà hoạt động phản chiến Mỹ, bà là biểu tượng của sự kiên cường với lý tưởng hòa bình. Nữ diễn viên Jane Fonda, một trong những nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng nhất trong những năm chiến tranh ác liệt ở Việt Nam đã nhiều lần bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với bà. Nhà báo Frances FitzGerald, tác giả cuốn sách đoạt giải Pulitzer “Fire in the Lake” về chiến tranh Việt Nam, đã có những bài viết sâu sắc về ảnh hưởng của cuộc chiến đến người dân Việt Nam; và bà Nguyễn Thị Bình là một trong những nhân vật được FitzGerald đề cập với sự tôn trọng đặc biệt. Trong khi nhiều phóng viên nam tập trung vào các trận đánh, FitzGerald lại chú ý đến những câu chuyện con người, trong đó bà Nguyễn Thị Bình là hiện thân sống động của sự kiên cường của phụ nữ Việt Nam. Thậm chí, trong hồi ký của nhiều nhà Ngoại giao Mỹ tham gia đàm phán Paris, bà Nguyễn Thị Bình cũng được nhắc đến như một đối thủ đáng gờm nhưng hết sức đáng tôn trọng. Họ thừa nhận rằng sự xuất hiện của một phụ nữ thanh lịch, thông minh và kiên quyết như bà Nguyễn Thị Bình đã phá vỡ mọi khuôn mẫu định kiến của họ về “Việt Cộng”.
André Menras, một công dân Pháp từng bị chính quyền Sài Gòn bắt giữ 2 năm rưỡi vì “tội” vẫy cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, kKhi được thả tự do, một phần nhờ áp lực Ngoại giao từ các cuộc đàm phán Paris, ông đã công bố danh sách các tù nhân chính trị đang bị tra tấn trong các nhà tù miền Nam, trong khi chính quyền Sài Gòn phủ nhận sự tồn tại của họ. Sự kiên trì của phái đoàn bà Nguyễn Thị Bình trong việc đòi phóng thích tù nhân chính trị đã mang lại tự do cho những người như ông Menras.
Nhà sử học Christina Schwenkel trong nghiên cứu về Ngoại giao Việt Nam đã viết: “Nguyễn Thị Bình là người ký kết Hiệp định Paris năm 1973 với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam duy nhất còn sống”. Schwenkel cũng lưu ý rằng việc chọn một phụ nữ làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris là một “quyết định sáng suốt” phá vỡ mọi định kiến của Mỹ về người cách mạng Việt Nam.
Cống hiến sau khi đất nước thống nhất và những ghi nhận của Đảng, Nhà nước
Sau khi đất nước thống nhất, bà Nguyễn Thị Bình tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp xây dựng lại đất nước sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm 1976 đến 1987, bà giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục của nước Việt Nam thống nhất, chịu trách nhiệm xây dựng nền giáo dục cho cả nước trong thời kỳ đầy khó khăn sau chiến tranh. Đây là thời điểm đất nước đang phải đối mặt với hậu quả nặng nề của chiến tranh, cấm vận kinh tế và nghèo đói, nhưng bà vẫn kiên trì với nhiệm vụ nâng cao dân trí, đặt nền móng cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Năm 1992, bà được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch nước, cương vị cao nhất mà bà từng đảm nhận. Trong suốt 10 năm trên cương vị Phó Chủ tịch nước, bà đã đại diện cho Việt Nam trong nhiều sự kiện quốc tế quan trọng. Tháng 5 năm 1994, bà tham dự lễ nhậm chức của Tổng thống Nelson Mandela tại Nam Phi, thể hiện tình đoàn kết của Việt Nam với các cuộc đấu tranh giải phóng trên thế giới. Tháng 3 năm 2000, bà thực hiện chuyến thăm hữu nghị đến Thái Lan, thúc đẩy quan hệ song phương trong bối cảnh Việt Nam bắt đầu quá trình hội nhập ASEAN. Chuyến công du cuối cùng với cương vị Phó Chủ tịch nước là đến Washington D.C. vào tháng 5 năm 2002, nơi các cuộc thảo luận tập trung vào hợp tác hậu bình thường hóa, bao gồm thương mại và những vấn đề còn tồn đọng từ chiến tranh, phản ánh sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai cựu thù.
Một trong những hoạt động quốc tế đáng chú ý nhất của bà trong giai đoạn này là chuyến thăm Iraq năm 2002, ngay trước khi nước này bị xâm lăng. Tổng thống Hussein khi tiếp bà đã thông báo quyết định xóa toàn bộ khoản nợ của Việt Nam đối với Iraq. Đây là một cử chỉ đặc biệt hữu nghị và quan trọng đối với Việt Nam trong lúc chính Iraq cũng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn khi bị cấm vận toàn diện. Nhớ lại sự kiện này, bà Nguyễn Thị Bình đã viết trong hồi ký của mình như sau: “Saddam Hussein đã mắc những sai lầm gì trong nội chính và Ngoại giao, ông đã phạm những tội lỗi gì đối với nhân dân mình, lịch sử Iraq sẽ phán xét. Nhưng đối với Việt Nam, tôi nghĩ chúng ta biết ơn sự giúp đỡ quý báu của ông trong những năm Việt Nam vừa thoát khỏi chiến tranh”. Đây là một minh chứng cho nguyên tắc Ngoại giao mang đậm “lòng trung thành và biết ơn đối với những người đã giúp đỡ” mà bà luôn kiên trì.
Sau khi chính thức nghỉ hưu, bà vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Đặc biệt, bà đã chủ trì thành lập và là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam đầu tiên, tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp hòa bình và phát triển mà bà đã dành trọn cuộc đời. Ngoài ra, từ năm 2009 đến 2014, bà còn là thành viên của Ủy ban hỗ trợ Tòa án Russell về Palestine, thể hiện tinh thần quốc tế chủ nghĩa và sự ủng hộ đối với các dân tộc đang đấu tranh cho tự do.
Với những đóng góp nổi bật của mình cho sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, bà Nguyễn Thị Bình đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương Đại đoàn kết... Bà cũng được Nhà nước Lào trao tặng Huân chương Tự do hạng nhất vào tháng 5 năm 2025, ghi nhận những đóng góp của bà cho quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào. Đỉnh cao của sự ghi nhận đối với bà Nguyễn Thị Bình là ngày 25 tháng 8 năm 2025, tại Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã trực tiếp trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà, ghi nhận “sự hy sinh không ngừng của lớp lớp cán bộ ngoại giao để viết nên bản anh hùng ca của đất nước, dân tộc”.
Những bài học để lại cho các thế hệ mai sau
Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng không mệt mỏi của bà Nguyễn Thị Bình là tấm gương sáng để lại nhiều bài học quý báu và cho các thế hệ hôm nay và mai sau, trước hết đó là:
Thứ nhất là tinh thần yêu nước và lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng. Dù ở bất kỳ cương vị nào, dù phải đối mặt với khó khăn gì, bà luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết
Thứ hai là tài năng Ngoại giao xuất chúng. Mặc dù không được đào tạo chính quy tại bất kỳ trường lớp Ngoại giao nào, nhưng qua rèn luyện trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, bà đã trở thành một nhà ngoại giao tài ba, có tầm nhìn xa, thành thạo ngoại ngữ, cứng rắn và kiên quyết với đối thủ, nhưng gần gũi và tình cảm với bạn bè. Bà biết cách kết hợp khéo léo giữa tính nguyên tắc và sự linh hoạt, giữa đàm phán và vận động quốc tế…
Thứ ba là đạo đức cách mạng trong sáng. Bà luôn sống giản dị, khiêm tốn, quan tâm đến đồng chí, đồng đội. Một điều đặc biệt là bà luôn nhớ ơn những người đã giúp đỡ mình và đất nước, dù họ là ai.
Thứ tư là tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Dù đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào, từ tù nhân chính trị đến nhà Ngoại giao cao cấp ở Hội nghị Paris, từ Bộ trưởng Giáo dục đến Phó Chủ tịch nước, bà luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Như chính bà đã nói, dù ở cương vị nào, nhiệm vụ nào mà Đảng giao phó, đối với bà chỉ có một điều: “Làm việc vì đất nước”.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và phát triển, những bài học từ sự nghiệp của bà Nguyễn Thị Bình vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, trong công tác Ngoại giao hiện nay khi Việt Nam đang mở rộng quan hệ với các nước và bạn bè, đối tác trên toàn thế giới, kinh nghiệm của bà về cách kết hợp kiên định nguyên tắc với linh hoạt trong phương pháp, về nghệ thuật “làm bạn với mọi người nhưng không dựa dẫm vào bất kỳ ai”, về cách xây dựng hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế, đều là những di sản quý báu.
Nay đã ở tuổi 98, bà Nguyễn Thị Bình vẫn sống lạc quan, yêu đời và tiếp tục quan tâm đến sự phát triển của đất nước. Những người may mắn được gặp bà đều cảm nhận được sự nhân từ, trí tuệ và lòng yêu nước sâu sắc từ một người đã cống hiến trọn cuộc đời cho Tổ quốc. Những xuất bản của bà, trong đó cuốn hồi ký “Gia đình, bạn bè và đất nước” và “Tấm lòng với đất nước” đã trở thành những tài liệu quý giá về lịch sử Ngoại giao và cách mạng Việt Nam, trong đó, như bà đã viết: “Cuộc đời tôi gắn liền với cuộc đời của dân tộc… Tôi so sánh đất nước như một chiếc thuyền. Qua nhiều ghềnh thác, con thuyền Tổ quốc đã ra khơi, tới một chân trời mới phía trước”. Câu chuyện về bà Nguyễn Thị Bình sẽ mãi được ghi nhớ như một trong những chương đẹp nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và ngành Ngoại giao Việt Nam nói riêng; và là minh chứng cho sức mạnh của ý chí, trí tuệ và lòng yêu nước bất diệt của người Việt Nam.
BBT HĐ Hòa Bình và phát triển Việt Nam




In bài viết