SỰ THẬT VỀ BIỂN ĐÔNG: TIẾNG NÓI TỪ VIỆT NAM (kỳ 1)

VPDF: Những diễn biến phức tạp và căng thẳng gia tăng liên quan đến vấn đề Biển Đông đang thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế. Trong khi đó, một số nguồn thông tin đang làm cho công chúng ở nhiều nước có thể nhận thức sai lệch về bản chất, nguyên do và thực trạng tình hình. VPDF xin giới thiệu bài viết tổng hợp ý kiến phân tích, trao đổi của một số chuyên gia tại Quỹ Hoà bình và Phát triển Việt Nam để góp phần giúp bạn bè quốc tế, nhân dân các nước, kể cả người dân Trung Quốc, hiểu rõ hơn vấn đề này.

 

 

Biển Đông nóng hay lạnh?

Có phải tình hình Biển Đông vẫn luôn yên ổn như một số ý kiến liên tục khẳng định trong suốt thời gian qua để thuyết phục cộng đồng quốc tế không cần phải quan tâm và lo ngại? Liệu đó có phải là sự thật?

Những gì diễn ra trên thực tế đang cho thấy điều ngược lại.

Trên thực địa, sự căng thẳng và nguy cơ xung đột trên vùng biển này đang không ngừng gia tăng với việc Trung Quốc tăng cường nhanh chóng vũ trang và hiện diện quân sự ở quy mô chưa từng có, sử dụng sức mạnh mở rộng phạm vi và cường độ kiểm soát thực tế trên hầu hết khu vực Biển Đông, tăng cường gây sức ép và ngăn cản hoạt động hợp pháp của các quốc gia ven biển, đưa các giàn khoan và tàu khảo sát vào thăm dò và hoạt động trái phép cũng như sử dụng các tàu hải cảnh hỗ trợ tàu cá đánh bắt ngay tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước, đơn phương áp đặt lệnh cấm bắt cá ở Biển Đông, sử dụng vũ lực tấn công tàu đánh cá của ngư dân các nước đang hoạt động bình thường và hợp pháp trên biển. Các cuộc tập trận, kể cả bắn đạn thật, diễn ra ngày càng dồn dập với quy mô ngày càng lớn; đối đầu giữa các cường quốc hàng đầu diễn ra ngày càng quyết liệt.

Sự thật là chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển của nhiều nước đang bị thách thức ngày càng lớn; hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở khu vực Biển Đông đang bị đe doạ ngày càng nghiêm trọng; nguy cơ va chạm, xung đột và chiến tranh ngày càng cao. Nhiều chuyên gia quốc tế hàng đầu nhận định Biển Đông đang là điểm nóng về tranh chấp chủ quyền trên biển, là tâm điểm đối đầu chiến lược giữa các nước lớn và là thùng thuốc súng có thể làm bùng nổ xung đột tiếp theo, thậm chí có thể khơi nguồn một cuộc chiến tranh mới trong thời gian tới.

Đó là lý do mà tuy luôn bị ngăn cản nhưng các hội nghị ASEAN vẫn liên tục bày tỏ sự “quan ngại” về tình hình Biển Đông và vấn đề Biển Đông luôn là chủ đề nóng của tất cả các diễn đàn an ninh khu vực trong suốt những năm qua.

Đó cũng là lý do mà thế giới trong những tháng qua đã chứng kiến hàng loạt công hàm và tuyên bố dồn dập của các nước về yêu sách và ứng xử trên Biển Đông, trong đó nội dung mang tính đối kháng cao nhất và chủ yếu là giữa yêu sách và lập trường theo các giải thích luật pháp quốc tế của Trung Quốc với cơ sở pháp lý của các nước còn lại.

Và nếu bạn hỏi bất cứ người dân Việt Nam nào về điều gì đang làm họ lo lắng nhất đối với chủ quyền lãnh thổ và môi trường an ninh, phát triển của Việt Nam hiện nay, câu trả lời chắc chắn sẽ là: “Biển Đông”. Và đó không chỉ là suy nghĩ của riêng người dân Việt Nam.

Ai gây nên căng thẳng ở Biển Đông?

Một số nguồn tin nói rằng Biển Đông vốn yên bình và chỉ nóng lên gần đây do có sự can dự của Mỹ. Có đúng như vậy không?

Sự thật là từ sau chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ từng bước giảm sự hiện diện quân sự trong khu vực, trong đó có việc rút khỏi các căn cứ Subic và Clark ở Philipin và rút hạm đội 7 ra khỏi Biển Đông. Tình hình Biển Đông bắt đầu nóng lên do sự gia tăng yêu sách về chủ quyền và các hành động hiện thực hoá yêu sách chủ quyền bằng các biện pháp phi pháp, trong đó nổi bật nhất là việc Trung Quốc tấn công chiếm 6 đảo, đá của Việt Nam tại Trường Sa tháng 3/1988, ký hợp đồng với công ty nước ngoài để thăm dò khai thác dầu khí tại bãi Tư Chính thuộc thềm lục địa của Việt Nam và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 600 dặm tháng 5/1992. Căng thẳng gia tăng đã buộc ASEAN bắt đầu ra tuyên bố đầu tiên về Biển Đông ngày 22/7/1992. Nhưng sau đó Trung Quốc vẫn tiếp tục có các hành động xâm phạm các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước ven biển, đặc biệt là sử dụng vũ lực chiếm bãi Vành Khăn tại Trường Sa do Philipin đang kiểm soát năm 1995 và đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên biển từ năm 1999. Để ngăn ngừa xung đột, ASEAN đã ra sức thúc đẩy Trung Quốc đàm phán để xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông nhưng sau một thời gian kéo dài, Trung Quốc chỉ chấp nhận ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) không mang tính ràng buộc vào năm 2002.

Tuy nhiên, tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp kéo dài và trở nên ngày càng nghiêm trọng hơn kể từ sau khi Trung Quốc vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chính thức hoá yêu sách “đường chín đoạn” phi lý bao phủ hơn 80% diện tích Biển Đông tại Liên hợp quốc năm 2009 và gia tăng sử dụng sức mạnh, hành động ngày càng quyết đoán để hiện thực hoá yêu sách đó trên thực địa. Tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) lần thứ 17 tại Hà Nội tháng 7/2010, khi vấp phải sự phản ứng từ các ngoại trưởng các nước ASEAN, ngoại trưởng Trung Quốc khi đó là Dương Khiết Trì đã tuyên bố: “Trung Quốc là nước lớn, các nước khác là nước nhỏ và đó là một thực tế!”. Trung Quốc coi Biển Đông là một dạng “lợi ích cốt lõi” mới và gia tăng các hoạt động xâm phạm vùng biển của các nước khác, sử dụng sức mạnh ngăn cản hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác của các nước ven biển ngay tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ, liên tục gây sức ép buộc các nước chấp nhận “gác tranh chấp, cùng khai thác” với Trung Quốc ngay tại vùng thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước này, tăng cường uy hiếp, tấn công ngư dân các nước khác đang hoạt động hợp pháp trên biển. Nổi bật là các vụ Trung Quốc dùng các tàu hải giảm cắt cáp các tàu Bình Minh 2 và Viking của Việt Nam đang tiến hành khảo sát trên thềm lục địa của Việt Nam (năm 2011), sử dụng sức mạnh giành và thiết lập quyền kiểm soát đối với bãi cạn Scarbourough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philipin (năm 2012), đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào khoan thăm dò tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (năm 2014), cho tàu khảo sát Hải Dương 8 vi phạm vùng biển Việt Nam và Ma-lai-xia (năm 2019 và 2020), nhiều lần đưa các tàu hải giám, tàu khảo sát đến hoạt động phi pháp và gây sức ép tại bãi Tư Chính của Việt Nam, bãi James và bãi cạn Luconia ngoài khơi Malaysia, vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philipin và Brunây và khu vực gần đảo Natuna Lớn của Indonesia.

 

Trung Quốc bồi đắp, tôn tạo quy mô lớn biến đá Chữ Thập mà Trung Quốc chiếm của Việt Nam thuộc quần đảo Trường Sa thành tiền đồn quân sự trên Biển Đông. PNG image

Đặc biệt, Trung Quốc đã bồi đắp các bãi đá chiếm được trên biển cách xa bờ biển Trung Quốc hàng ngàn hải lý thành các đảo nhân tạo, biến chúng thành các cơ sở quân sự hùng mạnh với cả các sân bay phục vụ cho các phi cơ chiến đấu. Trung Quốc tăng nhanh ngân sách quân sự, tập trung phát triển quân đội, nhất là hải quân và không quân với tốc độ chưa từng có và với quy mô và sức mạnh vượt trội gấp nhiều lần tất cả các nước khác trong khu vực. Đồng thời, Trung Quốc tăng mạnh lực lượng bán quân sự để phối hợp với quân đội mở rộng kiểm soát thực tế trên hầu hết diện tích Biển Đông. Ngày 5/7/2020 vừa qua, Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc chính thức tuyên bố: “Biển Đông hoàn toàn nằm trong tầm tay của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc”.

Để biết ai đang gây căng thẳng tại Biển Đông, bạn chỉ cần xem ai có tham vọng và yêu sách lớn nhất, trái với luật pháp quốc tế nhất về chủ quyền trên vùng biển này? Ai đang tăng cường quân sự hoá mạnh nhất và đơn phương sử dụng sức mạnh để thay đổi hiện trạng với quy mô lớn nhất và đơn phương kiểm soát hầu hết toàn bộ diện tích trên Biển Đông nhằm hiện thực hoá các yêu sách vô lý đó? Và ai là kẻ đang gây hấn nhiều nhất với các nước ven biển khác với cường độ ngày càng tăng?.

 

Ảnh: Tàu chiến của hải quân Trung Quốc phóng tên lửa trên Biển Đông (JPEG image).

Chính tham vọng quá đáng và hành động thực hiện tham vọng này của Trung Quốc đang đe doạ nghiêm trọng và xâm hại chủ quyền và không gian sinh tồn của các quốc gia ven biển khác. Cần lưu ý rằng tất cả các nước này đều mong muốn có quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, hoàn toàn không muốn căng thẳng hay đối đầu với Trung Quốc, do đó, không nước nào tìm cách chủ động gây hấn với Trung Quốc, chỉ luôn buộc phải hành động để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình; thực tế là hầu hết các hành động gây hấn trên Biển Đông trong thời gian qua đều xuất phát từ Trung Quốc.

Chính tham vọng và hành động của Trung Quốc nhằm đơn phương kiểm soát Biển Đông bất chấp luật pháp quốc tế đã gây lo ngại cho các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế về hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không trên vùng biển quốc tế có vị trí đặc biệt quan trọng này. Đó cũng là lý do được các chính quyền Mỹ những năm gần đây sử dụng để triển khai các chiến lược “xoay trục”, “tái cân bằng” và “Ấn Độ - Thái Bình dương” với nội hàm chính là trở lại tăng cường can dự, hiện diện tại khu vực nhằm kiềm chế Trung Quốc. Và đó cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm lòng tin, gia tăng nghi ngại và phản ứng đối phó của cộng đồng khu vực và quốc tế đối với Trung Quốc, làm cho môi trường khu vực và quốc tế có những diễn biến mới bất lợi cho chính Trung Quốc.  

Trần Minh (tổng hợp)

Nguồn: VPDF

Còn nữa

Nguồn:vpdf.org.vn Copy link