THẢO VY - HỒNG SƠN/Theo PLO
Hội nghị lần thứ 30 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP30) đang diễn ra tại TP Belém (Brazil) và các thách thức nổi cộm trong ứng phó biến đổi khí hậu được gọi tên. Nổi bật trong số này là vấn đề tài chính và chủ nghĩa hoài nghi khí hậu.
Báo Pháp Luật TP.HCM đã trao đổi với các chuyên gia trong và ngoài nước về thực trạng và tác động của hai vấn đề này.

Tài chính khí hậu: Điều kiện mở khóa hành động
Theo TS Phạm Quỳnh Hương - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Khí nhà kính & Biến đổi khí hậu, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG-HCM, tài chính khí hậu là điểm then chốt quyết định sự thành công hay thất bại của tiến trình COP trong giai đoạn hiện nay.
TS chỉ ra rằng 2 kỳ COP gần đây (COP27 và COP28) đã chứng kiến một thực tế rõ ràng, đó là các nước đang phát triển đã, đang và sẽ vẫn là những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên nguồn lực tài chính để ứng phó, đặc biệt cho thích ứng, lại không tương xứng và đến rất chậm.
“Do đó, tài chính khí hậu trở thành ‘điều kiện mở khóa’ cho hành động” - TS Phạm Quỳnh Hương nhấn mạnh.
Lưu ý rằng COP30 là dấu mốc 10 năm sau Thỏa thuận Paris, TS Phạm Quỳnh Hương cho rằng đây thời điểm các quốc gia phải tăng cấp độ cam kết và bước sang giai đoạn thực thi bắt buộc, không chỉ nói mục tiêu.
“Thực thi cần có tiền, để chuyển đổi năng lượng, để thích ứng trong nông nghiệp, nước và đô thị, và để tái thiết sau các sự kiện cực đoan ngày càng lớn và xảy ra dồn dập. Nếu không có tài chính khí hậu, thì cam kết giảm phát thải sẽ chỉ nằm trên giấy, kế hoạch thích ứng sẽ chỉ dừng ở hội thảo, và hợp tác quốc tế sẽ bị suy giảm lòng tin” - theo TS.
TS Phạm Quỳnh Hương lưu ý rằng việc thiết lập Quỹ Tổn thất & Thiệt hại tại COP27 và bắt đầu triển khai tại COP28 là bước tiến đáng kể, nhưng quy mô hiện tại vẫn rất nhỏ so với nhu cầu thực tế của các nước bị tổn thương.
Cũng theo TS, nếu các quốc gia phát triển thể hiện cam kết tài chính thực tế và có thể dự đoán được, điều này sẽ khôi phục lòng tin, cho phép các quốc gia đang phát triển xây dựng kế hoạch chuyển đổi dài hạn, thay vì chỉ đối phó tình huống.
“Ngược lại, nếu không giải quyết được bài toán tài chính, COP30 có nguy cơ rơi vào bế tắc đàm phán, mỗi quốc gia tự hành động đơn lẻ, và tiến trình toàn cầu sẽ mất tính gắn kết chiến lược. Tài chính khí hậu không còn là ‘cơ chế hỗ trợ’, mà là nền tảng của toàn bộ tiến trình khí hậu toàn cầu. Không có tài chính, sẽ không có thực thi; không có thực thi, Thỏa thuận Paris sẽ chỉ tồn tại trên giấy” - vị chuyên gia bổ sung.

Đồng quan điểm, GS Carlos Nobre - Đồng Chủ tịch Hội đồng Khoa học vì Amazon (Brazil) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tài chính khí hậu.
Theo GS, tại COP29, các bên đã thảo luận và ước tính rằng từ năm 2026 đến 2035, thế giới sẽ cần khoảng 1.300 tỉ USD/năm để ứng phó với khủng hoảng khí hậu. Trong đó, khoảng 800 tỉ USD/năm dành cho việc chuyển đổi năng lượng nhanh chóng và khoảng 500 tỉ USD/năm để hỗ trợ thích ứng, giúp hàng tỉ người đối phó các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng.
GS Nobre cho rằng COP30 cần tiếp tục đi theo hướng này. Tuy nhiên, theo ông, không thể chỉ trông chờ vào các quốc gia giàu có mà tất cả các nước đều phải cùng nhau đóng góp và hành động.
“Không còn nghi ngờ gì nữa, việc huy động khoảng 1.300 tỉ USD mỗi năm là vô cùng cần thiết. Dĩ nhiên, các nước phát triển vẫn phải đóng góp phần lớn nguồn tài chính này, nhưng mọi quốc gia đều cần chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi, và phải thực hiện điều đó thật nhanh chóng” - GS Nobre trao đổi với Pháp Luật TP.HCM.

Quốc tế cần chung tay trước chủ nghĩa hoài nghi khí hậu
Thế giới đang chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ trong quá trình hợp tác khí hậu. Một mặt, nhiều nước nỗ lực hợp tác giải quyết vấn đề khí hậu, đưa chủ đề khí hậu vào chương trình nghị sự hợp tác song phương, đa phương. Mặt khác, chủ nghĩa hoài nghi khí hậu chiếm ưu thế ở nhiều nước.
Bình luận về vấn đề này, TS Phạm Quỳnh Hương cho rằng hai xu hướng này cùng tồn tại là vì biến đổi khí hậu vừa là vấn đề khoa học toàn cầu, vừa là vấn đề chính trị và phân phối lợi ích.
TS chỉ ra rằng những khu vực, nhóm ngành hoặc cộng đồng phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch hoặc chịu thiệt hại ngắn hạn khi chuyển đổi thường có xu hướng chống đối, phủ nhận, hay làm chậm tiến trình. Trong khi đó, các quốc gia đã chịu tổn thất lớn, đặc biệt các nước ven biển, đảo nhỏ, nông nghiệp phụ thuộc khí hậu lại có động lực mạnh để thúc đẩy hành động.
Theo TS Phạm Quỳnh Hương, điều này khiến tiến trình khí hậu toàn cầu không tuyến tính, mà diễn ra một cách gập ghềnh và không đồng đều. Có lĩnh vực tiến rất nhanh (năng lượng mặt trời, xe điện, pin lưu trữ, lâm nghiệp bền vững), trong khi có lĩnh vực bị kẹt vì xung đột lợi ích (than, dầu khí, cơ sở hạ tầng cũ, mô hình tăng trưởng dựa vào tiêu thụ tài nguyên).
“Chủ nghĩa hoài nghi khí hậu không làm biến đổi khí hậu chậm lại. Nó chỉ làm chậm phản ứng của chúng ta. Và mỗi năm chậm trễ là một năm làm tăng chi phí thích ứng và phục hồi trong tương lai” - TS Phạm Quỳnh Hương nhận định.
TS cho rằng thách thức hiện nay không chỉ là “thuyết phục mọi người tin biến đổi khí hậu là có thật”. “Thách thức lớn hơn là xây dựng những mô hình chuyển đổi vừa hiệu quả, vừa công bằng, để không ai bị bỏ lại phía sau. Khi đó, hợp tác sẽ trở thành nhu cầu tự thân, không chỉ là cam kết ngoại giao” - TS Phạm Quỳnh Hương kết luận.

Chia sẻ với Pháp Luật TP.HCM, bà Anna Aberg - Chuyên gia tại Trung tâm Môi trường và Xã hội thuộc viện Chatham House (Anh), nhắc lại phát ngôn gần đây của Tổng thống Mỹ Donald Trump rằng biến đổi khí hậu là “vụ gian dối lớn nhất từng xảy ra trên thế giới”.
Bà Aberg bày tỏ lo ngại về việc ông Trump muốn lần thứ hai rút Mỹ khỏi Thỏa thuận Paris. Tuy nhiên, bà cho rằng quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu không hề dừng lại chỉ vì các chính sách của một quốc gia.
Còn theo GS Nobre, chủ nghĩa hoài nghi khí hậu thực sự là một vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra ở nhiều quốc gia và là một thách thức rất lớn.
Theo ông, tại nhiều quốc gia, các chính trị gia phủ nhận biến đổi khí hậu lại đang được bầu lên nắm quyền, như ở Mỹ và Argentina.
GS Nobre cho rằng điều này rất đáng lo ngại, nhất là khi Mỹ là quốc gia phát thải lớn thứ hai thế giới hiện nay, chỉ sau Trung Quốc. Tính từ năm 1850 đến nay, Mỹ chiếm tới 25% tổng lượng khí thải toàn cầu. Vì vậy, việc Mỹ chậm trễ trong cắt giảm khí thải có ảnh hưởng rất lớn đến nỗ lực chung của toàn thế giới.
“Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các quốc gia khác nên ‘chờ’ Mỹ thay đổi mới hành động. Trái lại, tại COP30, các nước cần thể hiện rõ quyết tâm đi đầu, chủ động đối phó với các quan điểm phủ nhận biến đổi khí hậu” - GS lưu ý.
Tác động khi Mỹ vắng mặt tại COP30
Ngày 1-11, chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump xác nhận không cử quan chức cấp cao nào đến hội nghị thượng đỉnh khí hậu COP30.
TS Phạm Quỳnh Hương cho rằng sự vắng mặt của Mỹ tại COP30 sẽ gây ảnh hưởng trên cả 3 khía cạnh: chính trị - tài chính – kỹ thuật.
Về chính trị, hội nghị sẽ mất trụ “dẫn dắt”, tạo khoảng trống quyền lực. Thông thường, tại COP, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) là nhóm dẫn đầu khối giảm phát thải; Trung Quốc cùng với Ấn Độ dẫn đầu khối quyền phát triển, trong khi G77 + nhóm dễ tổn thương yêu cầu tài chính và thích ứng.
Nếu Mỹ vắng mặt, Trung Quốc sẽ gia tăng vai trò “nhà bảo trợ ngoại giao”, EU mất đồng minh và vì vậy tiếng nói sẽ suy yếu, trong khi khối nước đang phát triển có thể tăng đòi hỏi bồi thường khí hậu. Vì vậy, COP trở nên đa cực hơn, nhưng khả năng đạt đồng thuận sẽ khó hơn.
Về tài chính khí hậu, nếu Mỹ vắng mặt, EU, Canada, Nhật sẽ phải gánh nhiều hơn để bù đắp cho các nước kém phát triển. Điều này có thể dẫn tới bất mãn chính trị nội bộ, khiến COP30 khó đạt đồng thuận cam kết tài chính 100 tỉ USD/năm.
Về kỹ thuật giảm phát thải, Mỹ đang dẫn đầu về các công nghệ chuyển đổi năng lượng gió, mặt trời quy mô lớn; công nghệ lưu trữ năng lượng; công nghệ thu giữ carbon (CCUS); hydrogen xanh. Nếu Mỹ đứng ngoài, các quốc gia đang phát triển khó tiếp cận chuyển giao công nghệ chi phí giảm phát thải tăng lên, tiến trình chậm lại.




In bài viết