Bác sĩ Nguyễn Đình Kim, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, là em của cố Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc, năm nay gần 90 tuổi nhưng vẫn nhớ rõ tình tiết sự việc về anh trai và chuyến đi năm ấy. Ông kể: “Cha tôi là y sĩ Đông Dương Nguyễn Đình Diệp, sinh năm 1910, quê ở Phượng Vũ, Phượng Dực, Phú Xuyên, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra, cha tôi nhập ngũ, là Quân y xá trưởng Trung đoàn Vĩnh Phúc, đóng tại Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Anh Nguyễn Đình Ngọc lúc đó làm liên lạc viên của trung đoàn. Đầu tháng 10-1947, quân Pháp mở trận càn lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ, đã bắt được cha và anh tôi. Trên đường giải về Hà Nội, chúng đã thủ tiêu cha ở gần cầu Đuống, còn anh Ngọc thì bị đưa về tra hỏi. Thấy anh còn nhỏ, không khai thác được gì, chúng buộc phải thả về. Gia đình chúng tôi ngày ấy ở số 121 phố Hàng Bạc (Hà Nội), anh em tôi học Trường Bưởi (Trường THPT Chu Văn An ngày nay). Anh Ngọc hơn tôi một tuổi, học trên tôi một lớp. Năm 1950, anh đã đỗ đầu tú tài toàn phần.
![]() |
Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc (giữa) gặp lại các bạn học sau ngày nước nhà thống nhất. Người thứ hai, từ phải sang là bác sĩ Nguyễn Đình Kim (tháng 10-1996). Ảnh do gia đình bác sĩ Nguyễn Đình Kim cung cấp. |
Đang học dở năm thứ hai cao đẳng, anh Ngọc giả làm một linh mục trẻ học trường dòng, vào vùng tự do ở miền Trung để tìm cách tham gia kháng chiến. May mắn, anh bắt mối thành công thông qua một cơ sở cách mạng ở Vinh (Nghệ An) và gặp được Giám đốc Công an Liên khu 4 Nguyễn Hữu Khiếu. Anh được tuyển chọn học lớp đào tạo điệp viên ở miền rừng núi thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Học xong, anh được thủ trưởng Khiếu trực tiếp giao nhiệm vụ trà trộn vào dòng người di cư vào Nam, hoạt động đơn tuyến. Anh sẽ phải tiếp tục học lên, giành học bổng sang Pháp du học để có bằng cấp khoa học, về nước tạo vỏ bọc vững chắc trong giới thượng lưu và trí thức Sài Gòn nhằm hoạt động tình báo. Anh lấy bí danh “Diệp Sơn”, ghép tên cha và cậu em xấu số đã mất lúc 3 tuổi.
Đầu tháng 10-1954, trong lòng Hà Nội tạm chiếm, kẻ địch đã lâm vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, hoang mang, sợ hãi... Hôm đó, hai anh em tôi sang sân bay Gia Lâm để làm thủ tục cho chuyến bay vào Nam của anh Ngọc. Ở cổng sân bay có khá đông người đang chen chúc đứng ngồi chờ đến lượt mua vé, nhưng chẳng thấy bóng tên cảnh binh nào. Có lẽ chúng cũng đang rối mù thu xếp của nả cho cuộc tháo chạy trước ngày Việt Minh tiếp quản Thủ đô, ngày 10-10-1954. Anh em tôi lặng lẽ rời khỏi nhà ga. Ngày lên đường của anh Ngọc đã được ấn định. Trước lúc đi, anh để lại cho tôi một thư ngắn, dặn có người từ Nghệ An tên Thành đến lấy thì đưa. Đó là thư báo cáo anh đã vào Sài Gòn đúng như dự kiến và giới thiệu tôi là liên lạc giữa anh với tổ chức.
Anh Ngọc vào đến Sài Gòn học tiếp cao đẳng khoa học. Do học lực xuất sắc, hai năm sau, anh được học bổng toàn phần sang Pháp. Trong 10 năm ở Paris, anh đã lấy 3 bằng kỹ sư và 2 bằng tiến sĩ, trong đó có tiến sĩ quốc gia về toán cao cấp. Giữa năm 1966, anh về nước, trở thành GS Trường Đại học Khoa học Sài Gòn và GS thỉnh giảng ở nhiều trường đại học của miền Nam. Trong vỏ bọc đó, suốt 9 năm hoạt động tình báo trong lòng địch, anh không bị lộ, chỉ đến phút chót, vài giờ trước cuộc tổng tấn công cuối cùng của quân ta vào Sài Gòn, CIA mới lần ra tung tích của anh, nhưng đã quá muộn. Vớt vát, chúng muốn anh cộng tác “hai mang” nhưng bị từ chối thẳng thừng và ngay sau đó anh đã báo cáo sự việc này với cấp trên”.
Ở Đại học khoa học Sài Gòn, từ năm 1966 đến ngày đất nước thống nhất 30/4/1975 người ta chỉ biết một giáo sư toán học tên là Nguyễn Đình Ngọc, ông nổi tiếng cả về chuyên môn và cách sống. Về chuyên môn: ông có tài và đa năng, trongcacs bằng tiến sĩ, trong đó có bằng tiến sĩ quốc gia (tương đương tiến sĩ khoa học hiện nay) về toán học. Ông từng là thành viên của Viện Khoa học cao cấp Pháp INET, là bạn với nhà toán học nổi tiếng thế giới A.Grothendeck, đoạt giải Filds (được gọi là Nobel Toán học) năm 1966. Đồng nghiệp đều rất phục ông về kiến thức, sự tận tụy với nghề. Ông sống một mình, vợ con đều ở lại Pháp, nhưng đó là cách sống rất khác người, nên họ còn gọi ông là “giáo sư lập dị”. Có thể kể ra những “lập dị” của ông: ngày ăn có một bữa; cửa buồng khóa những 7 khóa; đi lại toàn cuốc bộ hoặc bằng xe đạp; ăn mặc thì xuềnh xoàng; không rượu, bia, thuốc lá, nhà không có thứ đồ đạc gì đáng giá, toàn sách. Đôi khi ông cũng có những thể hiện ra bên ngoài khác thường, đó cũng có thể hiểu là bản lĩnh cao cường của người điệp viên trong việc tạo ra một “vỏ bọc” vững chắc. Sau cuộc tổng tấn công của quân giải phóng vào Sài Gòn Tết Mậu Thân (1968), ông đề xuất với Ban Toán, nơi ông làm việc, là thư viện của ban có rất nhiều sách quý, địa điểm lại gần một đồn cảnh sát rất có thể bị tấn công, nên sơ tán toàn bộ kho sách đó về nhà ông cho an toàn. Thế là ông thồ sách trên booc-ba-ga, ghi-đông, chủ yếu dắt bộ trên đường ngược chiều, sau hàng tháng trời kẽo kẹt như thế mới chuyển hết vài nghìn cuốn sách.
Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, CIA và đặc vụ Sài Gòn đã có nghi vấn “Giáo sư lập dị”, cử người bám đuôi đêm ngày. Song chỉ thấy ông đi dạy liên miên, vùi đầu vào sách vở và không giao du với ai, có chăng chỉ là mấy người trong họ hàng vợ, hoặc bạn học cũ ngoài Hà Nội, toàn những kẻ có máu mặt trong giới thượng lưu Sài thành, như: Phó đề đốc hải quân Nghiên Văn Phú, cựu Thủ tướng Phan Huy Quát; Thủ lĩnh Đảng Đại Việt Đặng Văn Sung, Tham mưu trưởng biệt khu thủ đô, Đại tá Phan Huy Lương…...
Thế rồi sau ngày nước nhà thống nhất, “Giáo sư lập dị” là “công chức lưu dung” thêm vài năm nữa mới chính thức rời giảng đường. Đến một ngày, ông xuất hiện trên đường phố thành phố Hồ Chí Minh với bộ quân phục sĩ quan an ninh, lon Trung tá. Bạn bè, đồng nghiệp bán tín bán nghi: hay ông ấy là người của công an từ trước? Cũng có thể do có chuyên môn cao, ông được tuyển dụng vào ngành công an và cái lon ấy chỉ là phản ánh đồng lương được hưởng của ông, v.v... Rồi những năm cuối thập kỷ 80, thế kỷ trước, ông chuyển hẳn ra Hà Nội, làm ở bộ phận nghiên cứu kỹ thuật của Bộ Nội vụ (sau đổi là Bộ Công an), đến những năm cuối thập kỷ 90, ông đeo lon Thiếu tướng, là Cục trưởng Cục Viễn thông tin học, Bộ Công an và còn có thời kỳ biệt phái, làm Phó ban chỉ đạo Công nghệ thông tin Nhà nước... Thế rồi, mãi khi ông đã nghỉ hưu (2002), nhiều người mới biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua, khoa học chỉ là vỏ bọc, ông là một “Việt Cộng nằm vùng”.
Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, CIA và đặc vụ Sài Gòn đã có nghi vấn “Giáo sư lập dị”, cử người bám đuôi đêm ngày. Song chỉ thấy ông đi dạy liên miên, vùi đầu vào sách vở và không giao du với ai, có chăng chỉ là mấy người trong họ hàng vợ, hoặc bạn học cũ ngoài Hà Nội, toàn những kẻ có máu mặt trong giới thượng lưu Sài thành, như: Phó đề đốc hải quân Nghiên Văn Phú, cựu Thủ tướng Phan Huy Quát; Thủ lĩnh Đảng Đại Việt Đặng Văn Sung, Tham mưu trưởng biệt khu thủ đô, Đại tá Phan Huy Lương…...
Thế rồi sau ngày nước nhà thống nhất, “Giáo sư lập dị” là “công chức lưu dung” thêm vài năm nữa mới chính thức rời giảng đường. Đến một ngày, ông xuất hiện trên đường phố thành phố Hồ Chí Minh với bộ quân phục sĩ quan an ninh, lon Trung tá. Bạn bè, đồng nghiệp bán tín bán nghi: hay ông ấy là người của công an từ trước? Cũng có thể do có chuyên môn cao, ông được tuyển dụng vào ngành công an và cái lon ấy chỉ là phản ánh đồng lương được hưởng của ông, v.v... Rồi những năm cuối thập kỷ 80, thế kỷ trước, ông chuyển hẳn ra Hà Nội, làm ở bộ phận nghiên cứu kỹ thuật của Bộ Nội vụ (sau đổi là Bộ Công an), đến những năm cuối thập kỷ 90, ông đeo lon Thiếu tướng, là Cục trưởng Cục Viễn thông tin học, Bộ Công an và còn có thời kỳ biệt phái, làm Phó ban chỉ đạo Công nghệ thông tin Nhà nước... Thế rồi, mãi khi ông đã nghỉ hưu (2002), nhiều người mới biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua, khoa học chỉ là vỏ bọc, ông là một “Việt Cộng nằm vùng”.
Trung tướng Nguyễn Phước Tân, tức Hai Tân, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an, trong một lần trả lời phỏng vấn Báo Công an nhân dân đã khẳng định, đồng chí Nguyễn Đình Ngọc hoạt động đơn tuyến dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông, đã lập được nhiều chiến công có tầm chiến lược.
Năm 1970, Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc đã báo trước 72 giờ cho Trung ương Cục miền Nam kịp thời sơ tán tránh được trận đánh úp của Mỹ ngụy, định “cất vó” toàn bộ đầu não cách mạng; ông còn kịp thời báo cho Trung ương cục biết, Lonon, Siricmatắc sẽ lật đổ Quốc trưởng Sihanúc, ngay sau khi đảo chính chúng sẽ phong tỏa cảng Sihanúcvin, chặn đường tiếp tế của ta qua cảng này, đồng thời tấn công vào bộ chỉ huy ta đang đóng trên “vùng lõm” thuộc đất Campuchia. Và ông đã báo trước 24 giờ cho bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, quân Mỹ sẽ không trở lại cứu quân ngụy Sài Gòn khi ta tấn công vào sào huyệt cuối cùng của chúng... Đó toàn là những tin quan trọng, ở tầm chiến lược.
Thiếu tướng, GS Nguyễn Đình Ngọc qua đời ngày 2-5-2006, thọ 74 tuổi. Trung tướng Hai Tân không lâu sau đó cũng lâm bệnh ra đi. Hai người đồng chí, người bạn chiến đấu thân thiết được an nghỉ bên nhau trong Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh.
Theo Theo Sự kiện và Nhân chứng/Sức khỏe &Đời sống