Đây là chuyến thăm đầu tiên diễn ra sau khi Việt Nam và Mỹ có một loạt hoạt động, tiếp nối chỉ một tháng sau chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin. Đặc biệt là, một loạt các chuyến thăm dồn dập này diễn ra trong cảnh đại dịch hoành hành trên thế giới.
Với chuyến thăm của Phó Tổng thống Kamala Harris thì có một loạt cái đầu tiên. Có lẽ cái đầu tiên lớn nhất chính là cái đầu tiên của nước Mỹ: Đây là nữ Phó Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Thứ hai là trong chuyến công du của quan chức cao nhất nước Mỹ, một Phó Tổng thống, đến Đông Nam Á và cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương này chỉ lựa chọn hai nước là Singapore và Việt Nam.
Thứ ba là, một chuyến đi rất được chú ý, của nhân vật số 2 của chính quyền Mỹ, ngay trong những tháng đầu tiên của nhiệm kỳ, là đến Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên một Phó Tổng thống Mỹ đến Việt Nam. Và trong 2 lần quan chức Mỹ công du đến ĐNA, đều có Việt Nam.
Qua thông báo của quan chức Nhà Trắng Mỹ và Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, chuyến đi này sẽ tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác toàn diện hai nước, trên tất cả các mặt, về kinh tế, văn hóa, giao lưu nhân dân, an ninh quốc phòng, những vấn đề 2 bên cùng quan tâm.
Những câu chuyện đầu tiên và đặc biệt đó cũng thể hiện những thông điệp, tôi rất trông đợi có những kết quả cả trên bình diện song phương và bình diện khu vực.
Quan hệ Việt - Mỹ phát triển như giờ đây, có những điểm đặc thù của nó. Vốn là cựu thù, rồi cấm vận, thù địch, đến thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995 và trở thành Đối tác toàn diện (ĐTTD) vào năm 2013, tất cả những dấu mốc ấy gói gọn trong chưa đầy 2 thập kỷ. Đạt được như vậy là không dễ dàng.
Rõ ràng, phải có nỗ lực của cả hai bên, để vượt qua trở ngại và hàn gắn nỗi đau của quá khứ, phải tăng cường hiểu biết và xây dựng lòng tin, rồi nhân lên điểm đồng và các lợi ích song trùng, hướng tới tương lai.
Chỉ có vậy mới tạo nên đà quan hệ như vừa qua và làm sâu sắc hơn hợp tác của hai nước trên tất cả các mặt: từ khắc phục hậu quả chiến tranh, đến kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, đến an ninh quốc phòng, giao lưu nhân dân, và hợp tác khu vực.
Quan hệ chính trị vì thế cùng ngày càng được tăng cường, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, trong đó có tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Hai bên thường xuyên trao đổi đoàn ở cấp cao và các cấp, đáng chú ý là, từ khi có quan hệ ngoại giao, thì liên tiếp các Tổng thống Mỹ đều đã đến thăm Việt Nam, và lần này, ngay trong những tháng đầu nhiệm kỳ, thì Phó Tổng thống Mỹ đến thăm. Mỗi khi có thăm cấp cao, là một lần quan hệ càng được nâng cao và làm sâu sắc hơn nữa.
Riêng về quan hệ Việt Mỹ, đặt trong bối cảnh chuyến thăm, có thể thấy Việt Nam vừa có tầm quan trọng trong quan hệ song phương với Mỹ, vừa có tầm quan trọng với khu vực Đông Nam Á, với ASEAN và với khu vực rộng lớn hơn là Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Liên tiếp 4 đời Tổng thống của Mỹ vừa qua đều đến thăm, từ Tổng thống Bill Clinton (năm 2000) đến Tổng thống Gergeo W. Bush (2006), Tổng thống Obama (2016) và Tổng thống Trump sang dự APEC và có chuyến thăm vào năm 2017 và sau đó dự thượng đỉnh Mỹ - Triều (năm 2019).
Năm 2013, khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có chuyến thăm Mỹ và hội đàm cùng Tổng thống Obama, hai nước đạt được khuôn khổ Đối tác toàn diện. Như vậy kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, lần đầu tiên quan hệ Việt - Mỹ có một khuôn khổ tổng thể, ổn định lâu dài cho phát triển trên bình diện song phương, giải quyết những vấn đề của quá khứ, khắc phục hậu quả chiến tranh, hướng đến tương lai cả trên bình diện khu vực và quốc tế.
Đến năm 2015, không thể không kể đến chuyến thăm mang tính lịch sử của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến Mỹ. Chuyến thăm đã đem lại các kết quả rất quan trọng:
- Hai bên khẳng định tiếp tục làm sâu sắc và nâng cao hơn nữa quan hệ Đối tác toàn diện.
- Ra Tuyên bố tầm nhìn về quan hệ, muốn hướng tới ngày càng phát triển hơn của quan hệ
- Trong Tuyên bố tầm nhìn và trao đổi giữa hai người đứng đầu thể chế chính trị hai nước, nhấn rất mạnh các nguyên tắc chỉ đạo quan hệ, trong đó có tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Đây là kết quả có ý nghĩa rất lớn.
Về kinh tế, nếu như khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, thương mại hai chiều của hai nước chưa đầy nửa tỷ USD thì đến giờ, con số này là trên 90 tỷ USD. Điều này cho thấy không gian quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước vẫn còn rất nhiều dư địa.
Bản thân nền kinh tế Việt Nam đổi mới, phát triển hội nhập cũng tạo ra cho Việt Nam khả năng mở ra nhận đầu tư từ Mỹ, cũng như hàng hóa của Việt Nam có thể xuất khẩu được sang Mỹ, tạo ra lợi ích mà hai bên cùng được hưởng. Đặc biệt, kể từ khi trở thành Đối tác toàn diện, quan hệ hai nước vàng về sau này càng phát triển mà tốc độ tăng hơn rất nhiều.
Về khắc phục hậu quả chiến tranh, phía Mỹ rất coi trọng hợp tác với Việt Nam, coi đây là mẫu hình, nhất là hợp tác trong tìm kiếm hài cốt binh lính còn mất tích. Mỹ cũng càng ngày càng hợp tác nhiều hơn với Việt Nam trong câu chuyện tháo gỡ bom mìn, xử lý chất độc dioxin. Ngay trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Austin, hai nước cũng ký kết ký kết bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ Việt Nam.
Trên thực tế, nhìn lại cả chiều dài quan hệ hai nước, khắc phục hậu quả chiến tranh đã hàn gắn, tạo nên niềm tin và chính là cầu nối đầu tiên của quan hệ và ngày càng làm sâu sắc thêm quan hệ. Hai dự án đã hoàn tất là tẩy độc ở sân bay Đà Nẵng và hiện đang triển khai là ở Biên Hòa.
Năm 2018, cũng lần đầu tiên, một tàu sân bay Mỹ đến Việt Nam nhưng không phải thông điệp chiến tranh mà là thông điệp của hữu nghị.
Chuyến thăm của một tàu sân bay Mỹ lần đầu tiên kể từ sau năm 1975 cũng là thông điệp hòa bình với khu vực. Việt Nam đã đón tàu Mỹ, đồng thời đón cả Hải quân Trung Quốc, Nhật, Nga… Đó không chỉ là thông điệp giữa 2 nước mà còn là thông điệp đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của ta với khu vực.
Trong chiều dài quan hệ Việt - Mỹ, nước Mỹ có 2 thông điệp Mỹ nhấn rất mạnh, kể từ khi hai nước nâng quan hệ lên Đối tác toàn diện.
Đó là, nhấn mạnh tôn trọng thể chế chính trị của nhau, là nguyên tắc cốt lõi để hai bên có thể làm việc được, tin cậy được với nhau.
Thứ hai, các quan chức Mỹ ngày càng nhấn rất mạnh: Nước Mỹ ủng hộ một Việt Nam độc lập, hùng mạnh, và thịnh vượng. Trong bối cảnh khu vực Đông Nam Á, khi các nước lớn cạnh tranh nhau, tôn trọng độc lập đồng nghĩa với việc tôn trọng cả độc lập của quốc gia trong lựa chọn con đường phát triển, tôn trọng con đường trong triển khai đường lối đối ngoại, không bắt phải chọn bên.
Những thông điệp đó song trùng với lợi ích của khu vực, lợi ích quốc gia Việt Nam, cũng song trùng đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam, càng làm cho đà quan hệ phát triển hơn nữa.
Dưới thời Tổng thống Biden, mới 7 tháng nhưng rõ ràng là chính quyền Mỹ thể hiện rất rõ trong chiến lược đối ngoại là coi trọng châu Á - Thái Bình Dương, coi trọng Đông Nam Á, coi trọng quan hệ với Việt Nam.
Điểm lại, có thể thấy một loạt những họat động vừa qua như Mỹ, các đoàn quan chức đi Đông Nam Á có Wendy Sherman, nhân vật số 2 của Bộ Ngoại giao, có Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại trưởng dự một loạt các hội nghị của ASEAN. Trong sự trở lại Đông Nam Á đó, dường như rất coi trọng Việt Nam cả ở song phương và khu vực.
Hai bên liên tục có tiếp xúc với nhau, Tổng thống Biden có thư chúc mừng thành công Đại hội Đảng 13, khẳng định thể hiện tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Các quan chức hai nước liên tục điện đàm qua các kênh ngoại giao và kinh tế.
Trong chính quyền Tổng thống Biden, có nhiều nhân sự và chính bản thân ông Biden cũng đã quen thuộc với Việt Nam, điều này chắc chắn cũng sẽ thuận lợi hơn cho đà quan hệ. Khi còn là Phó Tổng thống của chính quyền Obama, ông Biden đã chứng kiến câu chuyện hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác toàn diện năm 2013 và là người chủ trì chiêu đãi Tổng Bí thư trong chuyến thăm Mỹ năm 2015.
Trong bối cảnh đại dịch thời gian qua, chính quyền Biden cũng rất quan tâm hỗ trợ Việt Nam trong phòng chống dịch, viện trợ Việt Nam 5 triệu liều vaccine; 20,9 triệu USD, hỗ trợ về kỹ thuật, vật tư y tế… Điều này thể hiện nước Mỹ cũng rất ưu tiên hợp tác với Việt Nam trong nhiệm vụ chống dịch, một nhiệm vụ mà Việt Nam xem là trọng tâm và cấp bách.
Về kinh tế - thương mại, khi có vấn đề tồn tại, thì hai bên đối thoại, tìm giải pháp hợp lý, phù hợp với lợi ích cả hai bên, như việc xử lý về vấn đề thao túng tiền tệ. Hai bên đạt thỏa thuận và tháng 7 vừa qua, phía Mỹ đã quyết định không áp đặt hạn chế nào về thương mại với quan hệ 2 nước do vấn đề tiền tệ này. Đây cũng là cái xử lý rất tốt.
Tháng 6, Mỹ cũng đã trao tàu tuần duyên thứ 2 cho Cảnh sát biển Việt Nam. Quan hệ kinh tế thương mại hai nước đã đạt trên 53 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, bất chấp hoàn cảnh dịch bệnh, và khả năng đạt 100 tỷ vào cuối năm là rất lớn.
Nhìn lại, trong hơn 25 năm qua, quan hệ Việt - Mỹ đã phát triển mạnh mẽ trên tất cả các mặt, cả song phương và đa phương. Rõ ràng, quan hệ đó mang cả tính chiến lược và toàn diện và đã đến thời điểm chín muồi để hai bên định danh cho phù hợp với tầm quan hệ hai nước.
Với đà như vậy, nhất là ngay sau việc hai nước kỷ niệm 25 năm quan hệ, cá nhân tôi cho rằng, hai nước cần bàn bạc và có lộ trình sớm định danh đối tác chiến lược cho mối quan hệ này. Điều này phù hợp với mong muốn của nước, cũng phù hợp với lợi ích, chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá của Việt Nam.
Đồng thời, chuyến thăm cũng sẽ tăng cường hơn nữa hợp tác hai nước trên tất cả các lĩnh vực. Có một số lĩnh vực mới, hai bên chắc chắn cũng sẽ cập nhật, thúc đẩy hợp tác, nhất là về: Vaccine và phòng chống dịch, phục hồi và bảo đảm tính bền vững của các chuỗi cung ứng, thúc đẩy hợp tác về biến đổi khí hậu, gắn với năng lượng sạch, khí hoá lỏng, hay về chuyển đổi số, thương mại điện tử.
Như vậy là tính cả cái cấp bách chống dịch và hợp tác xa hơn hậu đại dịch. Trong bối cảnh hiện tại và trước những chuyển biến sâu rộng, thì Việt Nam và khu vực này đang đứng trước cả thách thức và cơ hội.
Trong đó, có nhiều việc có thế gắn kết và đưa vào hợp tác giữa hai nước. Đơn cử như câu chuyện phục hồi chuỗi cung ứng, đó là điều rất quan trọng khi đi vào phục hồi sau dịch.
Vì đại dịch, lại cộng thêm cạnh tranh nước lớn, các chuỗi cung ứng hoặc bị thay đổi hoặc bị đứt quãng. Đó vừa là thách thức, vừa có cơ hội, khi xuất hiện các chuỗi cung ứng, những sự chuyển dịch mới.
Cũng như các nước, Việt Nam cần phải đón đầu, nối lại hay lựa chọn thế nào cho phù hợp và có lợi, nhất là đón được các chuỗi cung ứng chất lượng cao hơn, bền vững hơn. Về an ninh khu vực cũng vậy, vào lúc vẫn tiếp tục có những thách thức phức tạp, thì càng cần phải thúc đẩy hợp tác chung, vì hoà bình, an ninh và phát triển, đề cao tuân thủ luật pháp quốc tế và chủ nghĩa đa phương. Tin rằng, với đà quan hệ, lại đúng vào dịp hai nước đều có lãnh đạo mới,chắc chắn chuyến thăm này sẽ tạo thêm đà cho quan hệ hai nước phát triển hơn nữa.
Đại sứ Phạm Quang Vinh
Theo Soha