Sống trong thế giới của sóng nhiệt

Biến đổi khí hậu và sóng nhiệt đang đặt những thách thức mới lên sức chịu đựng của con người. Liệu chúng ta có thể thích nghi?

Sóng nhiệt ảnh hưởng đến sức khỏe của những người làm việc ngoài trời trong thời gian dài. Ảnh: Shutterstock

Trong hai ngày đầu tháng sáu, người sống ở Hà Nội và các tỉnh thành khác ở đồng bằng Bắc Bộ gần như lần đầu tiên cảm nhận được “đặc sản” gió Lào (gió Foehn) ngay tại chỗ mà không phải đặt chân tới vùng duyên hải Trung Bộ. Không chỉ là “cái nóng nung người, nóng nóng ghê” (Dương Bá Trạc) thường thấy trong mùa hè, cái bỏng rát và khô ráp mà bầu không khí hầm hập, với mức nhiệt lên tới trên 40oC và độ ẩm 40 – 45%, dội từ không trung xuống dường như có thể rút kiệt mọi sinh lực. Đường phố đột nhiên vắng vẻ hơn, người giao hàng, bán hàng rong, bảo vệ… núp tạm vào các bóng cây ven đường. Những giọt mồ hôi chưa kịp rơi đã bốc hơi trên chiếc áo chống nắng khô giòn, tưởng chừng chạm tới là có thể vỡ vụn như bánh đa quá lửa.

Đó là một cơn sốc sóng nhiệt (heatwave) diễn ra vào đầu hè năm 2025, một mùa mà theo dự báo của Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia, tình trạng nắng nóng có khả năng xảy ra nhiều hơn so với trung bình nhiều năm và cần đề phòng hiện tượng nắng nóng gay gắt và đặc biệt gay gắt tại các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ1

Vậy trong tương lai của một thế giới biến đổi khí hậu, sóng nhiệt có ngày một trở nên phổ biến hơn? tần suất xuất hiện dày đặc hơn? độ khốc liệt lớn hơn? Những câu hỏi ấy khiến người ta cảm thấy ngày càng lo ngại hơn về những sự kiện thời tiết cực đoan trong tương lai, và hơn nữa về những con người sẽ phải hứng chịu nhiều rủi ro nhất. 

Sóng nhiệt trên mọi miền

Tự bao giờ mà mùa hè tràn đầy sức sống và niềm vui “Trời xanh biếc, nắng tràn trên khắp ngả” (Xuân Quỳnh) đã vụt trở thành cơn ác mộng với những đợt sóng nhiệt ngày càng gay gắt. Có lẽ, biến đổi khí hậu đã làm thay đổi tất cả, khiến cho mùa hè càng trở nên khắc nghiệt ngoài sức tưởng tượng của con người. Nhưng liệu đây có phải là lỗi của biến đổi khí hậu? “Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản biến đổi khí hậu là sự ấm lên toàn cầu, làm nhiệt độ gia tăng và nắng nóng gay gắt hơn. Sóng nhiệt là một hệ quả của biến đổi khí hậu”, giáo sư Phan Văn Tân, một chuyên gia hàng đầu về khí tượng, khí hậu của Việt Nam, hiện công tác tại Khoa Khí tượng thủy văn và Hải dương học (ĐH Khoa học tự nhiên, ĐHQGHN), nói. 

Giống như tấm gương phản chiếu những biến đổi âm thầm theo thời gian của sự ấm lên toàn cầu, hiện tượng sóng nhiệt lưu giữ tiến trình đó trong các bộ dữ liệu quan trắc. Nếu nhìn lại cả năm thập kỷ, những ngày nắng nóng trong mùa hè đã gia tăng theo thời gian ở hầu hết các vùng trên Việt Nam. Tuy nhiên, với sự gia tăng nhiệt độ khoảng 0,4°C trong một thập kỷ và số lượng những ngày nắng nóng tăng khoảng 5 đến 9%, những thay đổi đó đều ở mức rất tinh tế và khó nhận biết. “Trước đây, có thể đã có hiện tượng thời tiết cực đoan này song người ta chưa quan tâm. Cho đến gần đây, người ta mới nhận biết được sự nguy hiểm của nó và mới bắt đầu nghiên cứu”, GS. Phan Văn Tân nói.

Có lẽ, trước khi người ta nhận biết được sóng nhiệt thì nắng nóng đã tồn tại như một dấu hiệu điển hình của mùa hè với những ngày có mức nhiệt độ đạt hoặc vượt ngưỡng 35°C. Tuy có nhiều điểm tương đồng với nắng nóng nhưng sóng nhiệt khác với nắng nóng. GS. Phan Văn Tân giải thích “Nếu dùng ngưỡng 35°C để xác định thì sóng nhiệt chỉ phổ biến trong mùa hè và mùa đông hầu như không có sóng nhiệt. Nhưng nếu dùng ngưỡng phân vị (percentile) thì trong mùa đông cũng có thể có sóng nhiệt với những đợt ấm lên bất thường”. Theo nghĩa này, sóng nhiệt chính là khoảng thời gian có nhiệt độ không khí cục bộ tăng cao một cách bất thường so với nền nhiệt, vượt qua một ngưỡng nào đó trong một chuỗi ngày và đêm. 

Một sự kiện khí hậu cực đoan như sóng nhiệt không đến một cách đơn lẻ mà còn gắn với hạn hán thành một cặp bài trùng hiện tượng thiên tai phức hợp (compound hazard)

Sự tích lũy âm thầm những dịch chuyển nho nhỏ trong hàng thập kỷ rút cục đã tạo ra thay đổi lớn. Trong nhóm các hiện tượng thời tiết cực đoan của một thế giới biến đổi khí hậu, có những hiện tượng có thể giảm về tần suất hoặc gia tăng về cường độ nhưng sóng nhiệt lại là trường hợp biệt lệ: cả tần suất và số lần xuất hiện đều tăng theo thời gian. Hệ quả của nó là dù có mặt ở các vùng từ Bắc vào Nam nhưng sóng nhiệt xuất hiện ngày một thường xuyên hơn, dữ dội hơn, khắc nghiệt hơn và kéo dài hơn ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ2.  Những ngày có nhiệt độ ở mức nóng trên 35°C và rất nóng trên 39°C ở vùng Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Bộ đều có xu hướng gia tăng từ 2,6 đến 10,5 ngày trong một thập kỷ3

Sự khác biệt về vùng địa lý cho chúng ta thấy một phần bức tranh khốc liệt của sóng nhiệt. Nếu kể từ tháng tư đến tháng chín ở vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc, nhiệt độ giảm xuống với ngưỡng 27°C -28°C thì ở khu vực miền Trung, sóng nhiệt xuất hiện với mức nhiệt độ là 37°C -38°C chứ không phải chỉ 35°C. “Về mặt địa lý, sóng nhiệt ít xuất hiện vùng Tây Nguyên hơn và xuất hiện nhiều ở miền Trung, Bắc Trung Bộ, nhất là khu vực các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị cũ, những nơi có hiện tượng sóng nhiệt diễn ra khắc nghiệt nhất bởi vào mùa hè, gió mùa Tây Nam vừa nóng vừa khô thổi từ bên kia dãy Trường Sơn sang”, GS. Phan Văn Tân nói.

Thế giới phẳng, biến đổi khí hậu không còn là câu chuyện chỉ diễn ra ở xa tít mù khơi, nó đã đột kích chúng ta ngay tại hiên nhà. Trong cuộc đột kích ấy, thật họa vô đơn chí, biến đổi khí hậu, vốn dĩ đã dằn sức nặng sóng nhiệt trên đôi vai con người, nay còn khiến con người chùng chân mỏi gối bởi gia giảm thêm nhiều hệ quả khác. Một sự kiện khí hậu cực đoan như sóng nhiệt không đến một cách đơn lẻ mà còn gắn với hạn hán thành một cặp bài trùng hiện tượng thiên tai phức hợp (compound hazard). “Hạn hán có thể kéo theo sóng nhiệt, ngược lại sóng nhiệt cũng làm gia tăng hạn hán. Thông thường ít mưa thì sinh ra hạn, mà hạn thì đất khô, đất khô thì dòng bức xạ Mặt trời chiếu xuống mặt đất khiến cho bề mặt đất nóng hơn, bề mặt nóng thì làm không khí nóng hơn và dễ xảy ra sóng nhiệt”, GS. Phan Văn Tân nói. Hệ quả của sự kết hợp của sóng nhiệt và hạn hán là làm khuếch đại độ khốc liệt của sóng nhiệt lên.

Nhưng điều kinh khủng mà sóng nhiệt gây cho con người, rút cục sẽ là gì? 

Gánh nặng sức khỏe của sóng nhiệt

Không còn là mối lo ngại vu vơ, sóng nhiệt đang đặt thêm những thách thức mới lên sức chống chịu của con người. “Sóng nhiệt và phơi nhiễm nhiệt gần như là một trong những hiện tượng sức khỏe đáng lo ngại nhất toàn cầu trong thế kỷ 21”, TS. Trần Nữ Quý Linh, một nhà khoa học nghiên cứu về sự ảnh hưởng của sóng nhiệt và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên sức khỏe con người ở ĐH Queensland, Australia, chia sẻ với Tia Sáng

“Sóng nhiệt và phơi nhiễm nhiệt gần như là một trong những hiện tượng sức khỏe đáng lo ngại nhất toàn cầu trong thế kỷ 21”. 

TS. Trần Nữ Quý Linh

Có lẽ, chúng ta không thể ngờ được rằng, càng ngày chúng ta càng bị khóa lại trong một cái lồng vô hình của biến đổi khí hậu, với những đợt sóng nhiệt diễn ra ngày một thường xuyên hơn, dữ dội hơn và kéo dài hơn. Trong cái lồng vô hình ấy, nhiệt độ và độ ẩm cao kết hợp với bức xạ Mặt trời và tình trạng không được thông gió có thể làm giảm đi khả năng giữ cân bằng nhiệt độ cơ thể, dẫn đến trạng thái căng thẳng nhiệt (heat stress). Khi mức căng thẳng nhiệt tăng lên, cơ chế điều hòa nhiệt độ của con người bị suy yếu, cơ thể hấp thụ nhiều nhiệt hơn và nhiệt độ bên trong cơ thể bắt đầu tăng lên, không chỉ gây khó chịu mà còn dẫn đến rối loạn sức khỏe và có thể dẫn đến tử vong4. Đến một ngưỡng nào đó, nó vượt qua sức chịu đựng đã được định hình, thậm chí ngay cả khi sóng nhiệt có cường độ thấp và trung bình thì nó cũng đủ sức tác động đến sức khỏe của nhóm những người dễ bị tổn thương. “Ai cũng có nguy cơ phơi nhiễm nhiệt nhưng những người sức đề kháng yếu hoặc thường xuyên phải làm việc ngoài trời sẽ dễ bị tổn thương hơn, ví dụ trẻ em, người già, những người có bệnh mãn tính hoặc công nhân, nông dân lao động ngoài trời, người sống trong điều kiện nhà ở không đảm bảo thì nguy cơ của họ tăng nhiều hơn”, TS. Trần Nữ Quý Linh nói. Sự ảnh hưởng của nhiệt lên con người không cố định mà phụ thuộc vào giới, độ tuổi, trạng thái sức khỏe, bệnh nền, mặt khác “ngưỡng cảm thấy thoải mái về nhiệt độ của mỗi người cũng khác nhau”, chị cho biết.

Mùa gặt ở ĐBSCL. Ảnh: Shutterstock

Tác động của sóng nhiệt lên con người cũng ở trên một phạm vi rất rộng. Điều mà ai cũng dễ thấy là những ảnh hưởng trực tiếp, ví dụ như ở ngoài nắng một thời gian dài sẽ khiến đau đầu, chóng mặt, và có một số phản ứng sinh lý khác như ra mồ hôi nhiều, mất nước, mất điện giải, và sau đó sẽ có thể bị sốc nhiệt, ngất xỉu. “Tuy nhiên cũng có những ảnh hưởng xa hơn mà người ta không thể nhận biết được ngay, như gia tăng nguy cơ nhập viện, gia tăng nguy cơ tử vong do các nhóm bệnh khác”, TS. Trần Nữ Quý Linh phân tích. Thông thường có thể có người bị phơi nhiễm sóng nhiệt trong vòng mấy ngày nhưng một tuần, hai tuần sau mới nhập viện vì bệnh lý về hô hấp, bệnh lý về tim mạch, về các phản ứng khác về tâm sinh lý… “Khi đó, rất khó quy chiếu hệ quả do sóng nhiệt hay do nguyên nhân nào khác”.

 

Dẫu khó nhưng tác động của sóng nhiệt đã hiển thị ở Việt Nam: sóng nhiệt làm tăng đáng kể số ca nhập viện do nhiều nguyên nhân và do bệnh truyền nhiễm lần lượt là 2,5% và 3,8%, trong đó những người sống ở miền Bắc có nguy cơ cao so với người sống ở miền Nam Việt Nam về bệnh truyền nhiễm, tim mạch, hô hấp5…Nếu thêm một ngày vào một đợt sóng nhiệt trong vòng ba ngày thì có khả năng tăng tỷ lệ tử vong thêm 0,7% còn thêm một ngày vào một đợt sóng nhiệt kéo dài ít nhất chín ngày liên tiếp thì tỷ lệ tử vong tăng lên 1,2%. Nhìn chung, người cao tuổi, đặc biệt là những người trên 80 tuổi, chịu ảnh hưởng của sóng nhiệt nhiều nhất6. “Những nghiên cứu của tôi và của nhiều đồng nghiệp quốc tế, khi lấy thông tin về tỉ lệ nhập viện, so sánh với nhiệt độ hằng ngày, các yếu tố ảnh hưởng khác như độ ẩm, yếu tố mùa… cho thấy, nếu nhiệt độ tăng lên 1°C hoặc 2°C thì tăng thêm nguy cơ nhập viện do tất cả các bệnh, đặc biệt với các nhóm bệnh truyền nhiễm, bệnh tim mạch, bệnh hô hấp, và các bệnh về rối loạn sức khỏe tinh thần”, TS. Trần Nữ Quý Linh nói.

Theo logic thông thường, những người lao động ngoài trời như nông dân, bán hàng rong, thợ xây, công nhân làm đường, người làm nghề giao hàng… sẽ thuộc nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Đó là lý do mà TS. Trần Nữ Quý Linh tập trung vào tìm hiểu tác động của sóng nhiệt lên nhóm nông dân, những người chiếm hơn một phần ba lực lượng lao động và tham gia sản xuất trên hơn 40% tổng diện tích đất. “70% nông dân Việt Nam là nông hộ nhỏ, canh tác trên thửa ruộng nhỏ và chủ yếu áp dụng lối canh tác truyền thống. Vì vậy, họ không chỉ đối mặt với năng suất thu hoạch thấp hơn mà còn có nguy cơ phơi nhiễm với nắng nóng trong quá trình canh tác nhiều hơn”, chị cho biết. 

Vậy những người nông dân ở Việt Nam sẽ phải đối diện với những nguy cơ rủi ro sức khỏe gì? “Trong số gần 400 nông dân chúng tôi phỏng vấn thì 83,4% nông dân  cho biết họ đã gặp phải ít nhất một triệu chứng như chóng mặt, đau đầu, xây xẩm, mất nước, buồn nôn – những dấu hiệu đầu tiên của say nắng, sốc nhiệt trong mùa thu hoạch vừa qua”, TS. Trần Nữ Quý Linh nói. Hơn một nửa số nông dân tham gia nghiên cứu cho biết, họ từng phải chịu đựng hai hoặc nhiều triệu chứng nhưng chỉ 21,7% trong số đó đến khám bệnh tại các trung tâm y tế xã. 

Ảnh hưởng của sóng nhiệt với nông dân phức tạp hơn nhiều so với tưởng tượng. Bức tranh nông thôn đã có nhiều biến đổi trong vòng vài thập niên trở lại đây bởi số nông dân di cư ra thành thị kiếm kế sinh nhai không ít, đặc biệt là ĐBSCL, cộng thêm với xu hướng chuyển đổi nghề nghiệp như một cách đa dạng hóa thu nhập – làm công nhân, thợ hồ, tạp vụ… Vì vậy, phần nhiều những nông dân bám đất đích thực là những người lớn tuổi trong gia đình và họ chỉ nhận được sự hỗ trợ của con cháu mỗi khi thu hoạch. Thực tế này đã đem lại một kết quả khác hình dung: mức nhiệt cao làm tăng đáng kể nguy cơ nhập viện do mọi nguyên nhân đối với nông dân từ 60 tuổi trở xuống. TS. Trần Nữ Quý Linh giải thích “Thông thường càng lớn tuổi thì nguy cơ bị ảnh hưởng bởi nhiệt càng cao do họ thường mắc các bệnh nền và có sức đề kháng suy giảm. Tuy vậy, nông dân lớn tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi cho biết họ có phương án dự phòng và bảo vệ tốt hơn, đó là làm việc vào thời gian sớm hơn hoặc muộn hơn để tránh đỉnh nhiệt trong ngày, thời gian nghỉ giải lao cũng nhiều và thường xuyên hơn. Trong khi đó người trẻ thường có tâm lý chủ quan hơn về sức khỏe, và thường đặt những ưu tiên về kinh tế cao hơn sức khỏe nên làm việc với cường độ lớn và thời gian nhiều hơn, bất chấp mức nhiệt ngoài trời cao, đặc biệt là trong thời điểm thu hoạch. Vì thế ảnh hưởng sức khỏe lại lớn, nguy cơ nhập viện của họ lại cao hơn người lớn tuổi”.


Sóng nhiệt làm tăng đáng kể số ca nhập viện do nhiều nguyên nhân và do bệnh truyền nhiễm lần lượt là 2,5% và 3,8%, trong đó những người sống ở miền Bắc có nguy cơ cao so với người sống ở miền Nam Việt Nam về bệnh truyền nhiễm, tim mạch, hô hấp…

Chạy đâu khỏi nóng! Chịu gánh nặng sức khỏe do sóng nhiệt không chỉ là người bám đất, bám ruộng. Với những người dứt áo ra đi khỏi đồng ruộng để đa dạng hóa nguồn thu nhập khi nông nhàn, tình cảnh cũng không khác là bao, nếu không muốn nói thách thức hơn. Tình trạng đó đúng với người nghèo ở mọi quốc gia, kể cả người sống ở những quốc gia thu nhập cao ở châu Âu, ví dụ các nhà nghiên cứu Hà Lan phát hiện ra người nhập cư, người thuê nhà và phụ nữ là những nhóm tiếp xúc với nhiệt nhiều nhất ở mọi cấp độ đô thị hóa7.

Những người bán hàng rong cũng thuộc nhóm dễ bị tổn thương vì sóng nhiệt. Ảnh: Shutterstock

Không có gì ngạc nhiên khi sống gá lắp tại các đô thị lớn trong bối cảnh sóng nhiệt, người nông dân ly hương thuộc nhóm những người chịu nhiều bất lợi về mặt kinh tế xã hội nhất, bao gồm hầu hết những người làm việc ngoài trời – bán hàng rong, thợ xây, xe ôm, người giao hàng… Họ cũng là những người phải chịu tác động của hiệu ứng đảo nhiệt đô thị do sự áp đảo của các kiến trúc bê tông so với khu vực có hồ nước, cây xanh, ví dụ, vào tháng bảy, nhiệt độ không khí bề mặt trung bình tăng 0,7°C tại khu vực lõi đô thị so với vùng vành đai8.  Theo một nghiên cứu thực hiện tại Hà Nội, 58% đến 70% số người được hỏi đã từng bị chuột rút do nóng, khoảng một nửa bị nóng (58%), đau đầu (57%), chóng mặt (54%), ho (23%), 4% ngất xỉu; 65% người bán hàng rong và 40% thợ xây dựng, xe ôm, giao hàng có các triệu chứng kiệt sức9.

Điều bất lợi nữa là họ không có điều kiện để phục hồi, sau cái nóng hành hạ. Phần nhiều trong số họ sống ở những khu ổ chuột hoặc các nơi ở không đủ tiêu chuẩn, được làm bằng vật liệu chất lượng thấp, chẳng hạn như mái tôn không làm giảm nhiệt độ trong nhà. “Nhà tôi lợp tôn, về mùa hè trong nhà cũng nóng kinh khủng, nóng đến mức không thể chịu nổi. Nóng cả ngày lẫn đêm, ngay cả lúc 10 giờ tối. Vì vậy tôi không thể ngủ trên giường mà phải ngủ dưới sàn”; “Nhà tôi là nhà cấp bốn lợp tôn. Nhà có ba cái quạt nhưng trong những tháng hè có gió Lào thì vẫn rất nóng. Khi nóng quá không ngủ được, tôi thường dội nước lên sàn để ngủ. Mãi muộn, khi trời mát hơn, tôi mới ngủ được nhưng vẫn phải dậy sớm để làm việc đúng giờ, khá mệt mỏi”10

Các mức nhiệt độ cao về đêm lặng lẽ vắt kiệt sinh lực con người, không cho phục hồi sau một ngày bị cái nắng vò nhàu, bởi cơ thể phải căng mình điều chỉnh, dẫn đến giảm sút chất lượng giấc ngủ, sức khỏe tâm thần và sức khỏe tim mạch 11, qua đó có thể làm suy yếu hệ miễn dịch và trầm trọng thêm các bệnh mãn tính…

Các mức nhiệt độ cao về đêm lặng lẽ vắt kiệt sinh lực con người, không cho phục hồi sau một ngày bị cái nắng vò nhàu, bởi cơ thể phải căng mình điều chỉnh, dẫn đến giảm sút chất lượng giấc ngủ, sức khỏe tâm thần và sức khỏe tim mạch.

Làm gì để thích ứng?

Thích ứng với sóng nhiệt ngày một khốc liệt là một thách thức lớn đối với các nhóm dễ bị tổn thương. “Khi nói về ảnh hưởng sức khỏe của sóng nhiệt, người ta quan tâm đến ba yếu tố là mức độ phơi nhiễm, mức độ nhạy cảm và khả năng thích ứng. Nông dân Việt Nam thường làm nông nghiệp theo kiểu thủ công truyền thống, canh tác quy mô nhỏ, thời gian tiếp xúc nhiệt cao nên mức độ phơi nhiễm và độ nhạy cảm cao, tuy nhiên khả năng thích ứng lại thấp”, TS. Trần Nữ Quý Linh phân tích. “Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế của nông dân cũng thấp hơn các nhóm nghề nghiệp khác và mức độ chi trả bảo hiểm xã hội cũng khá thấp nên tỷ lệ tiếp cận những dịch vụ y tế cũng đang ở mức thấp hơn so với các nhóm ngành nghề khác”.

Một điểm bất lợi trong chiến lược thích ứng với sóng nhiệt của họ là tuy bị ảnh hưởng nhưng “họ không đi viện, cùng lắm là đi đến trạm y tế xã nhưng chỉ trong trường hợp bị ngất xỉu hoặc vài ba ngày sau bị ngất xong, mệt mỏi rồi mới đi khám”, chị lưu ý một thực tế là người nông dân chưa quan tâm nhiều đến bảo hộ hay dự phòng với sóng nhiệt. Do đó, dù yếu tố phơi nhiễm cao, yếu tố nhạy cảm cao nhưng khả năng thích ứng của nông dân lại thấp. Thông thường nhà khoa học vẫn coi “nông dân là nhóm rất dễ bị tổn thương bởi sóng nhiệt” nhưng trên thực tế, họ lại rất lạc quan vì đã phơi nhiễm nắng nóng từ khi còn nhỏ. “Họ không quá lo ngại về nắng nóng, không lo lắng về sức khỏe, họ lo sợ hơn về mất mùa, bão lũ, khô hạn vì ‘không gì sợ bằng mùa gặt mà lại mưa lụt’. Tâm lý của người nông dân cũng khác với cái mình tự hiểu và thấy trên y văn”. Khi trao đổi với những người nông dân, chị nhận ra là “tâm lý này cũng ảnh hưởng đến sự phòng hộ với nắng nóng. Và nếu xét ở góc độ giới thì nhiều nữ nông dân trẻ sợ nắng hơn sợ nóng vì họ sợ bị đen. Vì vậy, họ mặc áo bảo hộ dày để chống nắng nhưng việc mặc áo quá dày lại cản trở thoát mồ hôi giúp chống nóng. Còn nam giới thì chưa quan tâm nhiều đến ảnh hưởng sức khỏe của nắng nóng”. 

Xe ôm công nghệ và người giao hàng trong nắng nóng. Ảnh: Laodong.com.vn

Càng có ý thức về sóng nhiệt thì càng có chiến lược thích ứng và phòng bị. Câu chuyện về người nông dân cho chúng ta thấy một thực tế khác, đó là sự rủi ro sinh kế khiến họ phải tạm gác mối lo về sức khỏe lại. Tương tự, với những người làm việc ngoài trời ở thành thị thuộc về nền kinh tế phi chính thức, họ hiếm khi chịu nghỉ trong những ngày sóng nhiệt, đặc biệt là thợ xây. Phần lớn giải pháp của họ là ở trong bóng râm và uống nước. 

Sống trong một thế giới biến đổi khí hậu có nghĩa là những người lao động ngoài trời sẽ phải thích nghi với những nhiệt độ thậm chí còn cao hơn trong tương lai. Những giải pháp có mức chi phí thấp nhất, dễ áp dụng nhất và nhanh nhất, theo TS. Trần Nữ Quý Linh, là thay đổi khả năng tự thích ứng của cá nhân, phân biệt được những dấu hiệu cảnh báo đầu tiên về sức khỏe là phải nghỉ, thậm chí phải biết những dấu hiệu sơ cứu tạm thời để có thể giúp đỡ người khác khi họ bị say nắng, say nóng… Bên cạnh đó, các xã cũng có thể chuẩn bị sẵn sàng nguồn nước ở ngoài đồng ruộng để người dân sử dụng khi cần làm mát.

Tuy nhiên, ngần ấy vẫn còn chưa đủ. “Ở một số vùng bắt đầu có hệ thống cảnh báo sớm thiên tai, nói chung bây giờ có thể cảnh báo sớm được hạn hán, mưa bão… nên chúng ta có thể lồng vào đó những cảnh báo về sóng nhiệt và hướng dẫn cách thích ứng với sóng nhiệt phù hợp”, TS. Trần Nữ Quý Linh nhận xét. 

“Khi nói đến vấn đề góc nhìn thì góc nhìn của nhà khoa học cũng khác so với góc nhìn của người nông dân và cũng khác luôn với góc nhìn của những người làm chính sách. Với nông dân thì không thể ép họ theo được mà chỉ có bằng truyền thông, nâng cao nhận thức về mối quan tâm của họ với nhiệt, với sức khỏe thôi”, chị lưu ý. Vì vậy, việc dự báo sóng nhiệt có thể tính đến những cách thức phù hợp với các môi trường khác nhau. Ở thành thị, những người bán hàng rong, xe ôm lớn tuổi cũng có xu hướng quan tâm đến nguồn thông tin cảnh báo sóng nhiệt qua truyền hình và đài phát thanh trong khi những người trẻ tuổi phụ thuộc nhiều hơn vào mạng xã hội và ứng dụng điện thoại. Do đó, điều quan trọng là phải tiếp cận các nhóm cụ thể thông qua các kênh của họ và điều chỉnh thông tin để họ tiếp cận hiệu quả hơn, các nhà nghiên cứu nhận xét.

Sự tiến hóa của sóng nhiệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu còn có thể dẫn đến những cơ chế tác động đến sức khỏe mà nhất thời còn chưa được quan tâm đúng mức, đối với cả bệnh truyền nhiễm và phi truyền nhiễm, ví dụ nhiệt độ cao và độ ẩm có thể thúc đẩy sự sống sót của mầm bệnh, vector truyền bệnh ở cả những nơi mới, mùa mới, cách thức mới; thúc đẩy sự tăng trưởng của mầm bệnh trong thực phẩm, dẫn đến ngộ độc thực phẩm; hoặc thậm chí là thay đổi các thói quen ăn uống và vệ sinh. Bên cạnh đó, về lâu dài “thời gian phơi nhiễm nhiệt càng nhiều thì nguy cơ càng lớn, càng có bệnh nền và lại càng sống trong điều kiện chật chội, không điều hòa, thông gió kém thì càng tăng mức độ nhạy cảm nhiệt lên”. TS. Trần Nữ Quý Linh nói. Có thể đây sẽ là gánh nặng bệnh tật cho xã hội về sau này.

Đó là lý do mà hiện tại, ở khắp các diễn đàn khoa học về biến đổi khí hậu và sóng nhiệt quốc tế, các chuyên gia kêu gọi các chính phủ quan tâm hơn nữa đến chính sách thích ứng với sóng nhiệt đa dạng hơn cả ở đô thị và nông thôn, được thiết kế phù hợp với các nhóm yếu thế hơn và tạo ra những không gian công cộng nhiều cây xanh, mặt nước, nhiều bóng râm, thoáng khí, bổ sung các phương tiện làm mát như quạt, điều hòa nhiệt độ… và quan trọng là người dân có nhu cầu có thể tiếp cận một cách thuận lợi. 

Một chiến lược thích ứng với sóng nhiệt ở Việt Nam sẽ bao hàm những điều đó?□

——–

Chú thích

1. https://thanhnien.vn/hon-300-ky-luc-nang-nong-trong-nam-2024-nam-2025-con-gay-gat-hon-185250115234710769.htm

2. “Variability of heatwaves across Vietnam in recent decades”. Vietnam Journal of Earth Sciences. 2023.

3. “Vietnam in the face of extreme heat events”. Marie-Noëlle Woillez

4.  “Verification of Heat Stress Thresholds for a Health-Based Heat-Wave Definition”. Journal of Applied Meteorology and Climatology

5.  “Heatwave and risk of hospitalization: A multi-province study in Vietnam”. Environmental Pollution.2017

6.  “The impact of cold waves and heat waves on mortality: Evidence from a lower middle-income country”. Health Economics.2023

7.  “Heatwave exposure inequality: An urban-rural comparison of environmental justice”. Applied Geography. 2024

8.  “Vietnam in the face of extreme heat events”

9.  “Perceptions of heat-health impacts and the effects of knowledge and preventive actions by outdoor workers in Hanoi, Vietnam”. Science of The Total Environment. 2021

10.  “Heat stress and adaptive capacity of low-income outdoor workers and their families in the city of Da Nang, Vietnam”. Working Paper Series 3: 2013

11.  https://eos.org/articles/the-inequality-of-heat-stress

Bài đăng Tia Sáng số 14/2025