Mỹ đã hiểu sai Trung Quốc như thế nào?

Mục tiêu cốt lõi của Bắc Kinh là rõ ràng – và hạn chế.

Nguồn: David C. Kang, Jackie S.H. Wong, và Zenobia T. Chan, “What China Doesn’t Want,” Foreign Affairs, 19/09/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Hiện nay, trong giới hoạch định chính sách ở Washington, nhiều người cho rằng Trung Quốc muốn thay thế Mỹ trở thành siêu cường thống trị toàn cầu và muốn mở rộng lãnh thổ một cách hung hăng. Cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đều đồng thuận với suy nghĩ này. Elbridge Colby, cố vấn cho Lầu Năm Góc với tư cách là Thứ trưởng Quốc phòng phụ trách chính sách của Tổng thống Donald Trump, viết rằng: nếu Trung Quốc kiểm soát Đài Loan, đó sẽ là bàn đạp để mở rộng tầm ảnh hưởng sang Philippines và Việt Nam. Rush Doshi, quan chức cấp cao phụ trách Trung Quốc và Đài Loan tại Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Joe Biden và là một trong những kiến trúc sư của chính sách đối với Trung Quốc thời Biden, lập luận rằng Trung Quốc đã và đang chơi đường dài để thay thế Mỹ trở thành nhà lãnh đạo thế giới. Sự đồng thuận lưỡng đảng này đã góp phần định hình chính sách Trung Quốc của Mỹ, hiện tập trung vào chiến tranh, răn đe quân sự, và phân tách.

Vấn đề nằm ở việc đây là cách hiểu sai về Trung Quốc. Việc phân tích kỹ lưỡng những gì Trung Quốc nói họ muốn cho thấy một bức tranh hoàn toàn khác: Trung Quốc là một cường quốc duy trì nguyên trạng với các mục tiêu toàn cầu hạn chế, chứ không phải một quốc gia xét lại đang tìm cách mở rộng quyền lực đáng kể và tái định hình trật tự thế giới. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tập trung vào các thách thức nội bộ và sự ổn định chế độ nhiều hơn là mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài. Đúng là Trung Quốc có những yêu cầu về chính sách đối ngoại và thường xuyên bắt nạt các nước láng giềng, nhưng họ không tìm cách xâm lược hay chinh phục các nước láng giềng này. Họ cực kỳ nhạy cảm với việc kiểm soát các vùng lãnh thổ mà phần còn lại của thế giới đã đồng ý, chí ít là về mặt ngoại giao, là của Trung Quốc, bao gồm Hong Kong, Đài Loan, Tây Tạng, và Tân Cương. Tuy nhiên, tham vọng của họ hiếm khi vươn xa hơn.

Trung Quốc đang trở nên hùng mạnh và giàu có hơn, nhưng sức mạnh ngày càng tăng này không tái định hình một cách căn bản những mối quan tâm hay khát vọng của họ. Các mục tiêu chính của Trung Quốc, bao gồm cả những yêu sách lãnh thổ cụ thể, vẫn tương tự những gì họ muốn từ giữa thế kỷ 20, khi đất nước còn yếu và nghèo. Trên thực tế, chúng còn có từ xa xưa hơn: các chính quyền kể từ nhà Thanh, cai trị Trung Quốc từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, cũng đưa ra những yêu sách tương tự.

Nếu Trung Quốc là một cường quốc duy trì nguyên trạng với những mục tiêu rõ ràng và hạn chế, chứ không phải là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự thống trị của Mỹ, thì có lẽ Mỹ đang áp dụng sai cách tiếp cận đối với quan hệ song phương quan trọng nhất thế giới. Việc Washington nhấn mạnh vào răn đe quân sự và chuẩn bị cho chiến tranh có thể tạo ra chính xác kiểu đối đầu quân sự không cần thiết và đe dọa cô lập Mỹ khỏi Đông Á. Thay vì xem Trung Quốc là mối đe dọa nguy hiểm, Mỹ cần hiểu rõ lợi ích cốt lõi của Trung Quốc để biết nước này sẵn sàng thỏa hiệp và không thỏa hiệp trong những vấn đề nào. Sẽ tốt hơn nếu các nhà hoạch định chính sách Mỹ, những người muốn gây ảnh hưởng lên Bắc Kinh, chịu hợp tác với Trung Quốc về mặt kinh tế và ngoại giao thay vì cố gắng cô lập và kiềm chế Trung Quốc bằng một chiến lược tổng thể lấy quân sự làm trọng tâm.

HÃY LẮNG NGHE

Cách tốt nhất để hiểu Trung Quốc muốn gì là lắng nghe điều mà các nhà lãnh đạo, báo chí, và phương tiện truyền thông nước này nói về mong muốn của họ. Dù một số nhà quan sát thường chế giễu những tuyên bố công khai đó là lời nói suông hay tuyên truyền, nhưng vẫn có lý do chính đáng để tin rằng Trung Quốc nói đúng sự thật. Các nhà lãnh đạo và chế độ Bắc Kinh rất cẩn trọng trong việc truyền đạt mục tiêu, phương pháp, và logic quản lý của họ cho cả người dân trong nước và thế giới bên ngoài. Và ngay cả khi phần lớn những điều này là tuyên truyền được thiết kế để tung hô Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) hoặc thúc đẩy một luận điệu cụ thể, thì nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngay cả những tuyên truyền phóng đại nhất cũng có thể cung cấp những manh mối giá trị về suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Chí ít thì nó tiết lộ những gì các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn người dân tin tưởng.

Trung Quốc vẫn luôn tuyên bố rõ ràng và nhất quán về các lợi ích cốt lõi của mình. Vào tháng 09/2011, trước khi Tập Cận Bình nhậm chức lãnh đạo tối cao, Bắc Kinh đã công bố Sách Trắng chính sách đối ngoại chính thức đầu tiên, xác định các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Những lợi ích này bao gồm ổn định chính trị nội bộ, chủ quyền quốc gia, và toàn vẹn lãnh thổ, vị thế tối cao của ĐCSTQ, cũng như phát triển kinh tế và xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Tập, các lợi ích cốt lõi của đảng được giữ nguyên không đổi. Những chủ đề và thông điệp tương tự đã được ghi nhận trong hàng loạt tác phẩm của Tập và được sử dụng trong chương trình giáo dục quốc gia cho học sinh ngay từ bậc tiểu học.

Trong những mô tả của Trung Quốc về bản thân và lợi ích của họ, hầu như không có tham vọng lớn lao nào là trở thành lãnh đạo toàn cầu hay khu vực. Trong bài phát biểu quan trọng nhân kỷ niệm 100 năm thành lập đảng vào năm 2021, Tập không hề kêu gọi bá quyền hay lãnh đạo toàn cầu cho Trung Quốc. Phần duy nhất liên quan đến chính sách đối ngoại chỉ là nhắc lại việc Trung Quốc phản đối các hành động gây hấn ở nước ngoài. Nếu có cơ hội nào để tuyên bố rằng Trung Quốc có những tham vọng lớn hơn, thì đó hẳn là vào dịp kỷ niệm ngày thành lập đảng, nhưng bài phát biểu của Tập đã hoàn toàn bỏ qua vấn đề này.

Dù Tập và các nhà lãnh đạo khác thường xuyên kêu gọi Trung Quốc đóng vai trò lớn hơn trong quản trị toàn cầu, nhưng điều này không có nghĩa là họ đang tìm cách thay thế Mỹ trở thành cường quốc thống trị toàn cầu. Đề xuất gần đây của Tập về cái gọi là Sáng kiến Quản trị Toàn cầu, được ông công bố vào đầu tháng 9, nêu rõ rằng sáng kiến này nhằm duy trì hệ thống quốc tế dựa trên Liên Hiệp Quốc thay vì lật đổ nó. Trung Quốc cũng không muốn trở thành cường quốc duy nhất phụ trách các tổ chức này. Thay vào đó, họ nói rõ – từ thời Chiến tranh Lạnh – rằng mục tiêu của mình là hợp tác đa phương. Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong các tổ chức đa phương như Liên Hiệp Quốc là hệ quả của nền kinh tế đang phát triển của nước này, cũng như việc Mỹ rút lui khỏi các tổ chức này. Khi các khoản đóng góp tài chính của Mỹ cạn kiệt, Trung Quốc chắc chắn sẽ đảm nhận một vai trò lớn hơn.

Trong các hoạt động toàn cầu, Trung Quốc tìm cách thúc đẩy cả tăng trưởng kinh tế lẫn ảnh hưởng chính trị. Tuy nhiên, những nỗ lực quốc tế này lại hướng đến nội bộ và xuất phát từ các vấn đề trong nước. Ví dụ, Trung Quốc khởi động Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) nhằm giảm bớt tình trạng dư thừa công suất trong các ngành công nghiệp liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem BRI là công cụ để xây dựng sự ủng hộ quốc tế cho các mô hình phát triển và quản trị của Trung Quốc – nhưng mục tiêu không phải là truyền bá các giá trị Trung Quốc, hay khuyến khích các quốc gia khác áp dụng hệ thống chính trị và kinh tế của Trung Quốc. Thay vào đó, BRI và nhiều chương trình khác nhằm mục đích sử dụng đòn bẩy kinh tế của Trung Quốc để thu hút sự ủng hộ quốc tế cho các yêu sách chủ quyền cụ thể của họ, đặc biệt là đối với Đài Loan.

Trái ngược với những gì Trung Quốc nói rằng họ muốn, luận điệu chính sách đối ngoại của Mỹ chứa đầy những ám chỉ đến bá quyền toàn cầu, xem Mỹ là quốc gia “không thể thiếu,” và thể hiện khát vọng giữ vững vai trò thống trị thế giới. Các nhà lãnh đạo cả Dân chủ lẫn Cộng hòa, từ Nancy Pelosi đến Mitch McConnell, đều đồng ý rằng Mỹ nên theo đuổi bá quyền. Về phần mình, Trump cho thấy rằng ông muốn định hướng lại vai trò của Mỹ trên thế giới, nhưng dường như vẫn xem thế giới là nơi Mỹ phải và nên thống trị – và các hành động của ông cho đến nay, chẳng hạn như sử dụng thuế quan và đe dọa để buộc các đồng minh lâu năm của Mỹ phải nhượng bộ, là bằng chứng rõ ràng cho điều này. Không thể tìm thấy bất kỳ loại luận điệu hay hành động tương đương nào ở quy mô này từ ĐCSTQ, những người đã thể hiện rõ mong muốn đa cực của họ. Dù Trung Quốc thường đe dọa và ép buộc các quốc gia khác, chẳng hạn như trong các tranh chấp với Hàn Quốc và Australia, nhưng các hành động của họ thường bị kích hoạt bởi các sự kiện mà Trung Quốc cho là đe dọa trực tiếp đến các lợi ích cốt lõi của mình.

TRỖI DẬY CÓ GIỚI HẠN

Giới phê bình thường viện dẫn những cụm từ mới trong diễn ngôn của Trung Quốc như bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang tìm cách mở rộng quyền lực và nhiều khả năng muốn thay thế Mỹ. Ví dụ, kể từ năm 2021, Tập thường xuyên nhắc đến cụm từ “phương Đông đang trỗi dậy và phương Tây đang suy tàn.” Vấn đề là cụm từ này mang tính mô tả, chứ không mang tính tham vọng: nó phản ánh nhận thức của Bắc Kinh rằng sức mạnh của Trung Quốc đang gia tăng trong khi sức mạnh của Mỹ và châu Âu đang suy yếu. Hơn nữa, khi Tập sử dụng cụm từ này, nó thường đi kèm với một câu nói khác, một câu nói thường bị bỏ qua: “Trung Quốc không có ý định thay đổi hay thay thế Mỹ.”

Cụm từ này cũng ít phổ biến hơn nhiều so với những gì chúng ta tưởng. Dù thu hút sự chú ý của giới truyền thông phương Tây và các nhà hoạch định chính sách ở Washington, cụm từ này chỉ xuất hiện trong 32 bài viết trên tờ Nhân dân Nhật báo, tờ báo hàng đầu của ĐCSTQ, đóng vai trò là thước đo đường lối chính thức của đảng. Khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói “phương Đông đang trỗi dậy và phương Tây đang suy tàn,” họ phần lớn đang biện minh cho nhu cầu tăng cường hơn nữa năng lực nhà nước để giải quyết các thách thức nội bộ và thách thức phát triển, chứ không phải để ám chỉ việc thay thế vai trò toàn cầu của Mỹ. Ví dụ, trong một bài phát biểu nội bộ vào năm 2023, Tập đã viện dẫn cụm từ này để ca ngợi chương trình nghị sự chính sách đối nội thành công của Trung Quốc, mô tả nó như một mô hình về cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giữa các nước đang phát triển, đồng thời nhấn mạnh rằng một mô hình như vậy không thể xuất khẩu.

Nhìn rộng hơn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chưa từng đề xuất thay thế Mỹ trong các bài phát biểu hay văn kiện của họ, bất kể đối tượng mục tiêu là ai. Phân tích định lượng 176 bài phát biểu có đề cập đến Mỹ của Tập Cận Bình từ năm 2012 đến năm 2024 cho thấy chủ đề chính là hợp tác, chứ không phải thay thế. Ngay cả khi đề cập đến các vấn đề nhạy cảm, bao gồm Đài Loan, Hong Kong, và Biển Đông, Tập vẫn tập trung vào sứ mệnh lịch sử của Trung Quốc trong việc bảo vệ biên giới, chứ không phải mong muốn mở rộng lãnh thổ. Việc đề cập đến Mỹ thường đi kèm với các ý tưởng như can dự, hợp tác, và phát triển, hơn là đối đầu.

Những đánh giá định tính nhằm phân tích sắc thái và bối cảnh ngôn ngữ mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng cũng cho thấy câu chuyện tương tự. Khi đọc kỹ 290 bài phát biểu của Tập và Ngoại trưởng Dương Khiết Trì và Vương Nghị từ năm 2012 đến năm 2025 – cả bản dịch tiếng Trung lẫn tiếng Anh – chúng tôi không tìm thấy bất kỳ đề cập nào rằng Trung Quốc mong muốn trở thành bá chủ, một bá chủ có thể đơn phương đặt ra các quy tắc toàn cầu. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn nhấn mạnh sự hợp tác và mong muốn Mỹ và Trung Quốc tránh cái gọi là Bẫy Thucydides, trong đó hai nước chắc chắn sẽ xung đột.

TRỞ LẠI TƯƠNG LAI

Việc Bắc Kinh tập trung vào chính trị nội bộ, lo lắng về chủ quyền nội bộ, và quan ngại về biên giới trực tiếp và ổn định khu vực không phải là điều mới mẻ. Những luận điệu xoay quanh Đài Loan, điểm nóng nổi bật nhất đối với chủ quyền của Trung Quốc, là một ví dụ về nguồn gốc lịch sử của vấn đề này. Năm 1895, Lý Hồng Chương, người đại diện nhà Thanh đàm phán Hiệp ước Shimonoseki, đánh dấu hồi kết của Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, đã viết trong thư phúc đáp bản dự thảo hiệp ước của Nhật rằng: “Đài Loan đã được lập thành một tỉnh và không thể nhượng cho nước khác.” Năm 1958, chưa đầy một thập kỷ sau khi lên nắm quyền, Mao Trạch Đông cũng đưa ra tuyên bố tương tự, khẳng định: “Đài Loan là của chúng ta, và chúng ta sẽ không bao giờ thỏa hiệp về vấn đề này.”

Dù một số học giả cho rằng Trung Quốc muốn có Đài Loan vì các nhà máy bán dẫn hoặc vị trí chiến lược của hòn đảo, nhưng những tuyên bố của Trung Quốc thực chất bắt nguồn từ một luận điểm dân tộc đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Các nhà cai trị Trung Quốc xem Đài Loan là một phần lãnh thổ của họ từ rất lâu trước năm 1949, khi Quốc Dân Đảng, hay KMT, chạy sang Đài Loan và giữ quyền kiểm soát hòn đảo sau khi ĐCSTQ đánh bại lực lượng của họ trên đại lục. Các nhà lãnh đạo dưới thời nhà Minh (1368–1644) đã tập trung vào việc chống cướp biển và xử lý giao thương xuyên eo biển trong lúc ngày càng nhiều người Hoa đến hòn đảo định cư. Sau khi những người cai trị Mãn Châu giành quyền kiểm soát Trung Quốc từ nhà Minh vào năm 1644, nhà Thanh quản lý hòn đảo như một phần của tỉnh ven biển Phúc Kiến kể từ năm 1683, và xác lập nó thành một tỉnh riêng biệt vào năm 1683.

Những nỗ lực của nhà Thanh nhằm sáp nhập Đài Loan vào đế chế không phải vì sự giàu có hay khát khao chinh phục. Trước đó, Đài Loan không có vương quốc riêng để bị đánh bại, cũng không có quan hệ triều cống với nước nào. Việc Trung Quốc đưa Đài Loan vào lãnh thổ chủ yếu là để quản lý vùng biên giới, kiểm soát thương mại với người Hoa trên đảo, và chống nạn cướp biển. Từ khi nhà Thanh nhượng Đài Loan cho Nhật Bản vào năm 1895 sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau này đều xem Đài Loan là lãnh thổ cần phải giành lại. Các nhà lãnh đạo Quốc Dân Đảng đại diện cho Trung Quốc (khi đó là Trung Hoa Dân Quốc) trong và sau Thế chiến II đã nói rõ điều này. Tại Hội nghị Cairo năm 1943, nhằm xác định tương lai thời hậu chiến của châu Á, Mỹ và Anh đã nhất trí rằng “các lãnh thổ mà Nhật Bản đánh cắp từ Trung Quốc,” bao gồm đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ ngoài khơi (nay là một phần của Đài Loan), cần được trả lại cho Trung Quốc. Với việc Nhật Bản đầu hàng Lực lượng Đồng minh vào năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc đã giành lại chủ quyền đối với Đài Loan trong cái gọi là “hoàn trả” (retrocession), được dịch sang tiếng Trung là “quang phục” (guangfu), nghĩa là “lấy lại lãnh thổ đã mất một cách danh dự.”

Sau năm 1949, cả Quốc Dân Đảng ở Đài Bắc lẫn Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh đều tự nhận mình là người cai trị hợp pháp của toàn bộ đất nước Trung Quốc – bao gồm cả Đài Loan và đại lục. Phải đến khi Đài Loan chuyển sang chế độ dân chủ vào những năm 1990, thì sự thay đổi về chủ quyền của hòn đảo mới được đưa ra thảo luận. Do đó, về mặt ngoại giao, tranh chấp chủ quyền chỉ mới tồn tại 30 năm, trong khi quan ngại của Trung Quốc đối với Đài Loan đã có từ hơn 100 năm trước khi hòn đảo có giá trị quân sự hoặc kinh tế như hiện tại. Về cơ bản, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn muốn thống nhất với Đài Loan ngay cả khi hòn đảo này không có giá trị quân sự hoặc kinh tế.

Những quan ngại lãnh thổ khác của Trung Quốc cũng có từ ít nhất một thế kỷ trước. Hong Kong và Ma Cao, vốn nằm dưới sự cai trị của Anh và Bồ Đào Nha lần lượt vào năm 1841 và 1557, đã được trả lại cho Trung Quốc vào cuối những năm 1990. Trong khi đó, quyền cai trị của Trung Quốc đối với Tây Tạng, Thanh Hải, và Tân Cương bắt nguồn từ nhà Thanh, triều đại đã chinh phục một số chư hầu cũ của nhà Minh ở tây bắc Trung Quốc và Trung Á, rồi tái tổ chức chúng thành các tỉnh mới. Nhà Thanh tiếp quản Tây Tạng vào năm 1720 và cai trị cho đến năm 1912, khi Tây Tạng giành được độc lập trên thực tế, cho đến khi các nhà lãnh đạo ĐCSTQ cưỡng bức sáp nhập lại vào năm 1950.

Ngược lại, việc kiểm soát Biển Hoa Đông và Biển Đông lại ít quan trọng hơn đối với Trung Quốc. Tranh chấp xoay quanh các yêu sách trên biển bắt nguồn từ giai đoạn hỗn loạn nửa đầu thế kỷ 20, chứ không phải từ những yêu sách kéo dài của Trung Quốc. Khi các nhà lãnh đạo tại Hội nghị Cairo năm 1943 giải quyết các tranh chấp đất đai thời hậu chiến ở châu Á, và nhấn mạnh rằng cả Việt Nam và Triều Tiên nên trở thành các quốc gia độc lập, họ đã không xác định rõ cách thức xác định chủ quyền đối với các đảo nhỏ và biên giới trên biển.

Cũng nên chú ý đến nguồn gốc của cái gọi là đường chín đoạn, mà Trung Quốc sử dụng để phân định các yêu sách của mình ở Biển Đông. Đường này bao trùm phần lớn Biển Đông, kể cả vùng biển gần bờ của Việt Nam, Philippines, và Malaysia. Dù nhiều nhà quan sát tin rằng những yêu sách này chỉ mới xuất hiện, nhưng thực ra, ban đầu nó là đường mười một đoạn, xuất hiện lần đầu tiên trong một bản đồ chính thức của Trung Hoa Dân Quốc xuất bản năm 1948. Nó thậm chí có thể có từ trước đó: các nhà sử học đã kết nối bản đồ năm 1948 với bản đồ “Các đảo Trung Quốc ở Biển Đông” do một cơ quan chính phủ của Trung Hoa Dân Quốc xuất bản năm 1935. Tuy nhiên, vào năm 1957, ĐCSTQ đã xóa bỏ hai đoạn kéo dài đến Vịnh Bắc Bộ, vùng biển ngăn cách miền bắc Việt Nam với miền nam Trung Quốc – một động thái được hiểu rộng rãi là cử chỉ nhằm cải thiện quan hệ ngoại giao với Bắc Việt Nam. Như vậy, dù Trung Quốc kiên quyết không nhượng bộ về Đài Loan hoặc các yêu sách chủ quyền lâu đời khác, nhưng nước này đã thể hiện sự sẵn sàng thỏa hiệp đối với một số biên giới khác.

GIỮ NGUYÊN HIỆN TRẠNG

Các nhà phân tích và nhà quan sát cũng đã hiểu sai về Trung Quốc như một cường quốc bành trướng. Trên thực tế, mục tiêu của Trung Quốc không hề mở rộng về quy mô hay tham vọng. Ở thời kỳ đỉnh cao, diện tích nhà Thanh bao trùm 13 triệu km2 lãnh thổ, lớn hơn nhiều so với 9,42 triệu kmcủa Trung Quốc hiện nay. Việc Trung Quốc sẵn sàng pháp điển hóa hầu hết các đường biên giới hiện tại là bằng chứng cho thấy họ xem các yêu sách của các quốc gia khác là hợp pháp. Trung Quốc hiện không đưa ra yêu sách phục hồi chủ quyền đối với gần 4 triệu km2 lãnh thổ – nghĩa là họ không tìm cách sáp nhập lại mọi lãnh thổ đã mất ở Mông Cổ, Nga, Kyrgyzstan, và Tajikistan ngày nay, cùng nhiều quốc gia khác.

Trung Quốc đã nhiều lần từ bỏ lãnh thổ tranh chấp để giải quyết yêu sách và xác lập biên giới rõ ràng, miễn là điều đó không ảnh hưởng đến lợi ích cốt lõi của họ. Ví dụ, để giải quyết tranh chấp với Triều Tiên, vào năm 1962 và 1964, Trung Quốc đã từ bỏ núi Baekdu và hơn 500 km2 lãnh thổ lân cận. Và dù các nhà quan sát thuộc phe diều hâu tin rằng Trung Quốc có thể nhắm tới Việt Nam, xu hướng thực tế lại là Trung Quốc sẽ tìm cách giải quyết tranh chấp biên giới, chứ không mở rộng thêm. Sau khi Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, hai nước đã thực hiện các bước để giải quyết các bất đồng về biên giới, một vài trong số đó có từ thế kỷ 19. Hai bên cũng ký các hiệp ước song phương về biên giới vào năm 1999 và 2000. Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc có ý định đàm phán lại hoặc phá vỡ bất kỳ thỏa thuận nào trước đây với Việt Nam. Thật vậy, bất chấp các tranh chấp ở Biển Đông, quan hệ Trung-Việt đã được cải thiện: Quân đội Trung Quốc gần đây đã tham gia hai cuộc diễu binh của Việt Nam, được tổ chức vào tháng 4 và tháng 9.

Dù Trung Quốc đang ráo riết xây dựng các tiền đồn quân sự trên các đảo ở Biển Đông và phô trương sức mạnh với các nước láng giềng nhỏ hơn ở Đông Nam Á, nhưng nước này không phải là nguyên nhân duy nhất, cũng không phải là giải pháp duy nhất cho các tranh chấp biên giới đang diễn ra ở Biển Đông. Tuy nhiên, hành vi bắt nạt của Trung Quốc – hay bất kỳ dự án cải tạo đảo nào của bất kỳ quốc gia nào trong khu vực – không phải là nỗ lực nhằm đe dọa sự tồn vong của một quốc gia khác. Vấn đề đang bị đe dọa là các tranh chấp lịch sử, đòi hỏi kỹ năng ngoại giao khéo léo để giải quyết. Trung Quốc sẽ không từ bỏ các yêu sách của mình, nhưng họ có thể sẵn sàng thỏa hiệp trong việc quản lý các vùng biển chung. Quan trọng nhất, giải pháp của Trung Quốc khó có thể do quân đội của nước này lãnh đạo.

MỐI ĐE DỌA THỰC SỰ

Bởi vì Washington đã hiểu sai mong muốn của Trung Quốc, nên chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc cũng bị định hướng sai lầm. Các chính sách hiện tại nhằm cô lập Trung Quốc về mặt ngoại giao và kinh tế, cùng với việc Mỹ rút khỏi các thể chế kinh tế đa phương như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), được thiết kế để chống lại một cường quốc xét lại đang tìm cách thay thế Mỹ và đang hành động hung hăng để mở rộng lãnh thổ. Nhưng những điều này sẽ không giúp ích gì nhiều cho một quốc gia đang tập trung nhiều hơn vào việc duy trì nguyên trạng và ổn định nội bộ. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ không nên xem Trung Quốc là mối đe dọa nghiêm trọng, mà chỉ nên xem họ là đối thủ cạnh tranh bình thường. Cạnh tranh lành mạnh trong công nghệ, kinh doanh, và thậm chí cả giáo dục có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên mà không gây ra những phản ứng sợ hãi xuất phát từ quan điểm cho rằng bên còn lại là mối đe dọa sống còn.

Điều này có nghĩa là việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự ở Thái Bình Dương là không cần thiết và phản tác dụng. Chính sách quân sự “chủ động trước” đối với Trung Quốc và phần còn lại của Đông Á sẽ lãng phí nguồn lực khi chuẩn bị cho những tình huống bất ngờ có xác suất thấp, theo đó làm suy yếu sức mạnh quân sự của Mỹ về lâu dài. Nó cũng làm tăng khả năng leo thang căng thẳng với Trung Quốc thay vì hạ nhiệt. Mỹ hoàn toàn có thể trấn an các đồng minh, duy trì sự hiện diện quân sự ở Thái Bình Dương, và bảo vệ an ninh của mình mà không cần sự hiện diện quân sự quy mô lớn trong khu vực.

Việc cố gắng sử dụng vũ lực để định hình tương lai của Đài Loan thậm chí còn sai lầm hơn. Bởi vì các yêu sách của Trung Quốc đối với Đài Loan mang tính ý thức hệ và lịch sử, chứ không hoàn toàn mang tính chiến lược, nên việc cố gắng răn đe sẽ dễ dẫn đến khiêu khích hơn. Mục tiêu nên là duy trì nguyên trạng, vốn đã hiệu quả trong bốn thập kỷ qua. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ có thể làm nhiều hơn những gì George W. Bush và các tổng thống khác đã làm: nhấn mạnh với Trung Quốc rằng việc Đài Loan đơn phương thay đổi nguyên trạng là không thể chấp nhận được, và đây là cách khả thi nhất để đảm bảo nguyên trạng được duy trì. Trung Quốc đã khẳng định rõ ràng rằng họ sẽ không thỏa hiệp về vấn đề Đài Loan, nhưng lằn ranh cơ bản của họ là nền độc lập của Đài Loan. Bất kỳ hành động nào mà Mỹ có thể thực hiện để trấn an Bắc Kinh trên mặt trận này đều tôn trọng lợi ích cốt lõi rõ ràng của Trung Quốc và làm tăng khả năng duy trì nguyên trạng lâu hơn.

Việc tập trung vào chiến tranh là phản tác dụng vì các vấn đề chính đều không mang tính quân sự. Các công ty Mỹ có thể gặp khó khăn khi làm việc với các công ty Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc có thể tỏ ra hung hăng và cứng đầu, và lợi ích của Mỹ và Trung Quốc không thống nhất trong nhiều vấn đề then chốt. Tuy nhiên, đây là tình trạng bình thường trong chính trị thế giới, và các vấn đề đang “bị đe dọa” đều là những yếu tố tiêu chuẩn của cạnh tranh lành mạnh. Dựa vào ngoại giao, thay vì phô trương quân sự, có thể giúp giảm căng thẳng và giải quyết các vấn đề toàn cầu. Mỹ và Trung Quốc có thể hợp tác về chuyển đổi năng lượng, bảo vệ môi trường, và ngăn chặn đại dịch tiếp theo. Không một vấn đề toàn cầu nào trong số này có thể được giải quyết thông qua cách tiếp cận đặt quân sự lên hàng đầu của Mỹ.

Để đối phó hiệu quả với Trung Quốc, cần phải hiểu Trung Quốc như bản chất thực tế của họ, chứ không phải như một Trung Quốc mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ của cả hai đảng đã hình dung và chấp nhận như sự thật. Việc xem xét Trung Quốc muốn gì không phải là ảo tưởng hay thiên vị, mà là để thấy rằng mục tiêu của họ ít mang tính bành trướng, đối đầu, hay đe dọa lợi ích của Mỹ hơn so với suy nghĩ của nhiều chính trị gia Mỹ. Trung Quốc đang nói với thế giới – và với chính mình – về điều họ mong muốn. Nếu Washington muốn quản lý quan hệ với Trung Quốc một cách hiệu quả, tốt nhất họ nên lắng nghe.

Theo Nghiên cứu Quốc tế

David C. Kang là Giáo sư Quan hệ quốc tế tại Đại học Nam California.

Jackie S.H. Wong là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Sharjah.

Zenobia T. Chan là Giáo sư tại Khoa Quản trị chính quyền, Đại học Georgetown.