Kỳ cuối: Cơn sốt UFO
Không quân nhận về hàng loạt điện tín, thư và cuộc gọi từ công chúng yêu cầu thông tin. Trong khi Lầu Năm Góc cố gắng hạ nhiệt suy đoán và phớt lờ báo chí, các tờ báo đăng tít giật gân và in những tin đồn về máy bay ngoài hành tinh.

“ĐĨA BAY TRÀN NGẬP THỦ ĐÔ”, tờ The Cedar Rapids Gazette ở bang Iowa giật tít trang nhất ngày 29/7/1952. “Không quân xác nhận các ánh sáng lạ trên bầu trời, đặt mọi căn cứ vào tình trạng báo động” là tít bài trên Daily-Times Advocate ở California một ngày trước đó.
Ngay cả Albert Einstein cũng lên tiếng. Theo tờ Times Herald của Washington, D.C., ngày 30/7/1952, Einstein nói: “Những người đó đã nhìn thấy thứ gì đó. Đó là gì thì tôi không biết và tôi cũng không tò mò muốn biết”.
Hai cuối tuần liên tiếp xuất hiện vật thể bay khiến nhu cầu công chúng đòi hỏi biết thêm chi tiết lớn đến mức cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1952 và Thế vận hội Mùa hè sắp diễn ra bị lấn chỗ trên trang nhất.
Kỷ nguyên UFO hiện đại bắt đầu cách đó hơn 5 năm, khi phi công dân sự Kenneth Arnold ở Boise (bang Idaho) kể rằng đã nhìn thấy 9 vật thể hình đĩa bay quanh núi Rainier như chiếc đĩa lướt trên mặt nước. Báo chí chộp lấy cụm từ này khi độc giả bị bí ẩn này cuốn hút.
Đến năm 1952, việc nhìn thấy UFO trở thành nỗi ám ảnh toàn quốc và Dự án Blue Book ghi nhận số vụ nhìn thấy UFO kỷ lục. Sau đó, ông Ruppelt ước tính chỉ trong sáu tháng, 148 tờ báo lớn đã đăng hơn 16.000 bài viết về các vật thể không xác định.
Ngay cả Patterson cũng tham gia làn sóng này, kể lại cuộc truy đuổi điên cuồng của mình với phóng viên. Ông nói: “Tôi thấy vài ánh sáng rực. Tôi bay ở tốc độ tối đa, nhưng không thể rút ngắn khoảng cách”.
Không lâu sau, Nhà Trắng cũng lặp lại lời kêu gọi đòi câu trả lời. Trợ lý Không quân của Tổng thống Harry Truman, Chuẩn tướng Robert Landry, gọi cho ông Ruppelt để hỏi ông nghĩ thứ gì đã lao qua Washington, D.C., vài ngày trước đó. Khi cuộc điều tra chưa ngã ngũ, ông Ruppelt chỉ có thể đưa ra các giả thuyết.
Chiều hôm đó, trước áp lực đòi làm rõ lên đến đỉnh điểm, Thiếu tướng John Samford, Giám đốc tình báo Không quân, triệu tập cuộc họp báo lớn và dài nhất của Không quân Mỹ kể từ Thế chiến II.
Đứng cạnh ông Ruppelt và các sĩ quan tình báo khác tại phòng 3E-869 của Lầu Năm Góc, ông Samford nói có khoảng 50/50 khả năng các tín hiệu là do nghịch nhiệt làm méo sóng radar. Ông khéo léo né tránh các câu hỏi truy vấn của phóng viên hơn một giờ, bác bỏ cáo buộc che đậy hay trinh sát thù địch.
Đáng chú ý là Holcomb và Fournet, hai quan chức quân sự duy nhất trực tiếp chứng kiến tín hiệu radar trong tháp, không có mặt.
Thái độ mạnh mẽ của các thành viên không quân dường như làm báo chí dịu lại, dù các quan chức chưa từng đưa ra lời giải thích dứt khoát. Dù vậy, các tít bài trấn an độc giả rằng những tín hiệu bí ẩn chỉ là hiện tượng thời tiết. Nhưng hồ sơ của không quân kể một câu chuyện khác.
Cuộc điều tra sau đó phát hiện hiện tượng nghịch nhiệt xảy ra gần như mỗi đêm tại Washington, D.C., vào mùa hè năm 1952. Tuy nhiên, các tín hiệu radar không giải thích được chỉ xuất hiện vài lần.
Ông Ruppelt cũng ghi nhận một số phi công nghi ngờ các ánh sáng họ thấy là phản xạ và các điều tra viên không phản đối, cho đến khi họ trao đổi với các kiểm soát viên radar. Ông Ruppelt không thể bỏ qua thực tế rằng đây là những chuyên gia dày dạn kinh nghiệm, biết phân biệt giữa tín hiệu ảo và một vật thể rắn di chuyển nhanh.
Trong hai cuối tuần đó, ba cơ sở hàng đầu cùng theo dõi các mục tiêu giống nhau và khẳng định chúng là thật. Trước khi điều tiêm kích như chiếc của Patterson đi đánh chặn, các kiểm soát viên nói với điều tra viên rằng họ đã xác nhận thiết bị hoạt động bình thường và nhận được xác nhận trực quan từ các máy bay chở khách rằng có ánh sáng trên bầu trời tại vị trí radar theo dõi.
Cuối cùng, các vụ nhìn thấy UFO ở Washington, D.C., được xếp loại chính thức là “không xác định” trong hồ sơ Dự án Blue Book của không quân.
Hơn 70 năm sau, khi vẫn chưa xác định được nguyên nhân của hàng chục tín hiệu radar phối hợp hay các ánh sáng cơ động mà phi công tận mắt nhìn thấy, phân loại này không thay đổi. Ngay cả trong giới nghiên cứu UFO, cũng không có sự đồng thuận rõ ràng về những gì đã xảy ra vào tháng 7/1952.
Ông Kevin Randle, nhà nghiên cứu UFO nổi tiếng, phi công quân sự đã nghỉ hưu và tác giả cuốn “Invasion Washington: UFOs Over the Capitol” (tạm dịch: Xâm nhập Washington: UFO trên Điện Capitol), nói với CNN: “Có thứ gì đó ở trên không và đó không chỉ là nghịch nhiệt”.
Trong sách, ông viết: “Đúng, hoàn toàn có khả năng những người ở các cơ sở radar khác nhau tại sân bay quốc gia Washington và căn cứ Andrews đã bị đánh lừa. Nhưng điều đó không giải thích được các quan sát trực quan từ nhiều địa điểm khác, cũng không giải thích được trải nghiệm của phi công đánh chặn hay phi công hàng không dân dụng”.
Dự án Blue Book đã điều tra 12.618 vụ nhìn thấy UFO từ năm 1947 đến khi chấm dứt năm 1969. Trong số đó, 701 vụ vẫn chưa được xác định, bao gồm những gì đã lao vút và lơ lửng trên bầu trời thủ đô của Mỹ vào tháng 7/1952.
Không quân Mỹ cho biết họ không thấy có bằng chứng cho thấy các vụ việc đại diện cho những phát triển hay nguyên lý công nghệ vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết khoa học hiện đại, cũng không có dấu hiệu cho thấy đó là phương tiện ngoài Trái Đất.
Lực lượng này cho biết kể từ khi chấm dứt Dự án Blue Book, không có điều gì xảy ra để ủng hộ nối lại điều tra UFO.
Hiện nay, việc xử lý chính thức các hiện tượng dị thường không xác định (UAP), thuật ngữ hiện đại mà chính phủ dùng để nói về UFO, do Văn phòng Giải quyết Hiện tượng Dị thường Liên miền (AARO) thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đảm trách, sau khi được thành lập năm 2022.
Văn phòng này tiến hành nghiên cứu, thu thập và công bố dữ liệu, sử dụng thông tin từ các vụ nhìn thấy các vật thể qua nhiều thập kỷ để đánh giá liệu các thông tin về UAP đương đại là thông tin có thể giải thích theo cách thông thường hay là điều gì đó có khả năng dị thường.
Theo người phát ngôn Lầu Năm Góc Sue Gough: “Bằng cách xem xét lại các báo cáo UAP lịch sử với kiến thức và dữ liệu khoa học hiện đại, AARO có thể làm sáng tỏ thêm các vụ việc cũ và liên tục hoàn thiện khung phân tích và phương pháp luận của mình. Vấn đề sẽ không biến mất”.
Theo ông Ryan Graves, người sáng lập Americans for Safe Aerospace, các phi công nhìn thấy UAP trên bầu trời Mỹ mỗi ngày. Cựu phi công tiêm kích hải quân này đã điều trần trước Quốc hội Mỹ về những cuộc chạm trán không giải thích được của chính mình và vận động minh bạch về UAP.
Ông nói: “Tôi chắc chắn về việc Patterson tin chắc rằng thực sự có những vật thể trên đó mà ông đang truy đuổi. Nhưng ở trên đó rất cô độc và tôi hình dung mức độ bối rối, bất định mà ông ấy trải qua là đặc biệt lớn”.
Trớ trêu thay, theo ông Graves, vấn đề nguy hiểm này vẫn tồn tại với phi công ngày nay khi họ nhìn thấy điều khó giải thích. Ngay cả với công cụ hiện đại, phi công vẫn thiếu bối cảnh để hiểu hoặc thiếu quy trình để giảm thiểu các mối đe dọa này.
Năm 2025, Americans for Safe Aerospace ghi nhận năm có nhiều báo cáo nhất khi có hơn 700 báo cáo về UAP, tăng từ hơn 300 vào năm 2024. Ông Graves cho biết mục tiêu năm 2026 là xây dựng một tiêu chuẩn báo cáo UAP được thống nhất toàn cầu, phát triển cùng các đối tác hàng không và chính phủ trên nhiều châu lục, để dữ liệu các cuộc chạm trán của phi công có thể so sánh và sử dụng được.
Trong khi những người từng nhìn thấy UAP nhấn mạnh các mối đe dọa tiềm ẩn của các vụ việc, thì những người hoài nghi thường tập trung vào các lời giải thích thông thường như hiện tượng thời tiết, thiết bị bay không người lái và radar trục trặc. Họ hoài nghi về khả năng liên quan đến đối thủ nước ngoài hay trí tuệ phi nhân loại.
Thùy Dương/Báo Tin tức và Dân tộc




In bài viết