Sadat xây dựng chiến lược của mình dựa trên những bài học rút ra từ thất bại của người tiền nhiệm Gamal Abdel Nasser, người đã kích động Chiến tranh Sáu ngày năm 1967 và Chiến tranh Tiêu hao năm 1969-1970.
Những thất bại liên tiếp này dạy cho Tổng thống Sadat rằng Ai Cập thiếu sức mạnh quân sự để đánh bại Israel trên chiến trường, và siêu cường bảo trợ của Ai Cập, Liên Xô, không có ảnh hưởng chính trị nào đối với Israel. Nếu mục đích trọng tâm của chính sách Ai Cập là buộc nhà nước Do Thái phải rút khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng trong Chiến tranh Sáu ngày, thì Sadat sẽ phải nghĩ ra một công thức mới. Ông nhận ra rằng công thức đó sẽ bao gồm cả các mưu kế quân sự và chính trị, bao gồm cả mối quan hệ được cải thiện với Mỹ - siêu cường có ảnh hưởng ở Jerusalem.
Nasser qua đời vào tháng 9/1970. Ngay trước khi ông được an nghỉ, Sadat đã thuyết phục Nixon rằng Ai Cập đang khao khát tình yêu của Mỹ. Kênh liên lạc của ông với tổng thống Mỹ là Bộ trưởng Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Elliot Richardson, người dẫn đầu phái đoàn Mỹ đến dự tang lễ của Nasser.
Trong khi Thủ tướng Liên Xô Aleksey Kosygin, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai và Hoàng đế Haile Selassie của Ethiopia đợi trong lều chờ đám rước tang tiếp tục, Sadat đã chỉ thị cho các phụ tá hộ tống Richardson xuống tầng hầm của một tòa nhà gần đó, nơi nhà lãnh đạo Ai Cập đang nghỉ trên một chiếc giường nhỏ. Sadat chào đón người Mỹ một cách nồng nhiệt, mời ông đến dự cuộc họp vào ngày hôm sau, tại đó ông đề nghị Richardson nói với Tổng thống Nixon rằng Ai Cập “muốn xây dựng một mối quan hệ hợp tác, thân thiện và hoàn toàn mới với Mỹ”.
Sadat tiếp tục có nhiều biểu hiện ấm áp hơn và nhanh chóng mang lại kết quả. Đầu tháng 5/1971, Ngoại trưởng William Rogers đến thăm Cairo - vị ngoại trưởng Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Ai Cập kể từ khi John Foster Dulles đến nước này khoảng 20 năm trước. Sadat nói lúc hai người cùng ngồi xuống: “Tôi muốn trở nên gần gũi hơn nhiều với phương Tây. Không có lý do gì khiến người Arab phải liên kết chặt chẽ hơn với Liên Xô. Người dân của tôi thích phương Tây hơn. Chúng tôi đánh giá cao các giá trị của các bạn và sự liên kết của chúng tôi với các cơ hội kinh doanh ở phương Tây".
Về phần mình, Tổng thống Nixon và Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger không vội ôm lấy Sadat. Ngược lại, họ cố tình giữ khoảng cách với ông, buộc ông phải nỗ lực để đến gần họ. Tuy nhiên, Sadat đã đưa ra một số sáng kiến ngoại giao nhằm thúc đẩy ấn tượng mới về Ai Cập ở Washington.
Và ông đã thành công. Khi Chiến tranh Sáu ngày nổ ra vào năm 1967, Tổng thống Johnson và các cố vấn của ông đã hiểu chính xác Nasser là người được ủy nhiệm của Liên Xô, với ý định làm suy yếu ảnh hưởng của phương Tây trên khắp Trung Đông. Ngược lại, khi Sadat phát động cuộc chiến vào ngày 6/10/1973, Nixon và Kissinger đã công nhận ông ta ít nhất là một người bạn tiềm năng. Như chúng ta thấy, sự thành công trong cuộc "tấn công quyến rũ" của Sadat ở Washington đã thu hẹp đáng kể khả năng hành động của Israel sau này.
Vốn quen với sự nhạy cảm của Israel trước thương vong, ông tính toán rằng, mặc dù ông không thể nhổ tận gốc quân đội Israel khỏi Bán đảo Sinai (mà họ đã chiếm được từ Ai Cập vào năm 1967), nhưng ít nhất ông cũng có thể làm họ đổ máu. Số lượng tử thi lớn sẽ khiến các nhà lãnh đạo Israel chấn động nặng nề đến mức họ bắt đầu đặt câu hỏi liệu việc giữ lại lãnh thổ chiếm đóng có xứng đáng với cái giá phải trả hay không.
Để lên kế hoạch cho một cuộc tấn công có thể đạt được những mục tiêu này, Tổng thống Sadat đã nghiên cứu những thất bại của Ai Cập trong các cuộc chiến trước đó. Ông đã giải quyết những vấn đề có thể khắc phục dễ dàng; và đối với những lỗi không thể sửa được, ông tìm ra cách giải quyết. Trở ngại lớn nhất là lực lượng không quân Israel. Các tướng của Sadat giải thích với ông: “Chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc chuẩn bị cho một trận chiến trong điều kiện đối phương có ưu thế trên không”. Tuy nhiên, Ai Cập có thể vô hiệu hóa ưu thế đó ở những khu vực hạn chế bằng cách sử dụng tên lửa đất đối không (SAM).
Kế hoạch của Sadat cực kỳ đơn giản. Ông sẽ bố trí một số lượng lớn tên lửa SAM tối tân của Liên Xô ở bờ tây kênh đào Suez, nhiều đến mức tạo thành một chiếc ô bất khả xâm phạm không chỉ che phủ kênh đào mà còn kéo dài hàng kilomet vào lãnh thổ do Israel nắm giữ. Do đó, dọc theo chiến tuyến chính sẽ có một khu vực mà máy bay Israel không thể tiến vào. Được che chắn bởi "tán" SAM, quân mặt đất của Ai Cập có thể vượt kênh mà không bị cản trở.
Chúng ta thường nghĩ chiến tranh là những nỗ lực nhằm tiêu diệt quân đội của kẻ thù, chiếm giữ một lãnh thổ quan trọng hoặc kiểm soát dân số. Nhưng Sadat cho rằng chiến tranh là sự mở rộng của chính sách bằng các phương tiện khác, chỉ theo đuổi những lợi ích lãnh thổ khiêm tốn để phục vụ cho mục đích ngoại giao của ông. Khi làm như vậy, ông đã khiến các nhà phân tích Israel (và Mỹ) bối rối. Họ gặp khó khăn trong việc hiểu được suy nghĩ của một nhà lãnh đạo định phát động một cuộc chiến tranh lớn, hy sinh hàng nghìn binh sĩ chỉ để chiếm giữ vài km bán đảo Sinai. Tại sao Sadat lại phát động một cuộc chiến mà ông ta không thể thắng được?
Việc không hiểu được ý định của Sadat đã khiến họ phải trả giá đắt. Nhiều lần, Israel phớt lờ cảnh báo rằng một cuộc tấn công sắp xảy ra. Chỉ một ngày trước chiến tranh, các cơ quan tình báo đã thay đổi thái độ khi giám đốc Mossad (Viện tình báo và đặc nhiệm Israel), Zvi Zamir nhận được một bức điện khẩn cấp từ điệp viên được đánh giá cao nhất của ông, có biệt danh “Thiên thần”. Khi mặt trời lặn và lễ Yom Kippur sẽ bắt đầu vào thứ Sáu, ngày 5/10, Zamir vội vã tới London để gặp "Thiên thần". Zamir gọi điện về Jerusalem vào lúc 4 giờ sáng theo giờ Israel để thông báo rằng Ai Cập và Syria sẽ tấn công "vào buổi tối", được hiểu là vào khoảng 6 giờ chiều.
Với các nhà lãnh đạo cấp cao của Israel, lời của "Thiên thần" là vàng. Không còn nghi ngờ gì nữa: chắc chắn chiến tranh đang đến. Hai giờ sau khi điện tín của Zamir đến, Bộ trưởng Quốc phòng Dayan và Tham mưu trưởng quân đội David Elazar đã thảo luận về cách chuẩn bị cho cuộc đụng độ sắp tới. Vào lúc 8 giờ sáng 5/10, họ trình bày các phương án trước Thủ tướng Meir, người đã ra lệnh huy động quân lớn, nhưng quyết định không tiến hành tấn công phủ đầu. Bà coi việc đánh phủ đầu, chiến thuật từng giúp Israel giành chiến thắng trong Chiến tranh Sáu ngày, là điều không bàn đến.
Vào lúc 2 giờ chiều 5/10 - tức bốn giờ trước thời điểm "Thiên thần" tiên đoán—còi báo động không kích vang lên khắp Israel. Nếu nói rằng những kẻ tấn công đông hơn rất nhiều so với những người phòng thủ thì vẫn là một cách đánh giá thấp. Ở phía bắc, 5 sư đoàn Syria với 1.400 xe tăng và 1.000 khẩu pháo đã tấn công hai lữ đoàn Israel đóng trên cao nguyên Golan, vốn chỉ có 177 xe tăng và 50 khẩu pháo. Ở miền nam, con số thậm chí còn chênh lệch hơn. Năm sư đoàn bộ binh Ai Cập với gần 100.000 binh sĩ, 1.300 xe tăng và 2.000 khẩu pháo đã tràn qua kênh đào Suez chống lại khoảng 450 quân dự bị Israel được huấn luyện kém.
Những người phòng thủ kém may mắn ở Sinai đã điều khiển Phòng tuyến Bar Lev, một chuỗi gồm 16 thành trì phòng thủ đứng đằng sau một hàng rào cát khổng lồ - những thành trì quá xa nhau để có thể hỗ trợ hỏa lực hiệu quả cho nhau. Sau khi vượt qua kênh đào Suez, quân Ai Cập dễ dàng vượt qua những khoảng trống rộng giữa hai bên.
Kế hoạch chiến tranh của Israel vốn dựa vào lực lượng không quân hòng làm chậm bước tiến của đối thủ, để kịp thời huy động lực lượng dự bị. Nhưng không có sự chuẩn bị cho các phi công Israel trước những tên lửa đất đối không (SAM) mà họ đối mặt. Năm 1967, các phi công Do Thái dường như bất khả chiến bại. Nhưng chỉ sáu năm sau, họ mất từ 10 đến 30% số máy bay đang hoạt động trong 24 giờ đầu tiên của cuộc xung đột. Bộ chỉ huy cấp cao Israel rơi vào tình trạng sốc.
Tên lửa SAM-6 di động của Ai Cập, loại tiên tiến nhất, tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, nhưng chính số lượng tên lửa và mật độ hỏa lực mới là thách thức lớn nhất. Một phi công Israel cho biết: “Giống như bay qua làn mưa đá. Bầu trời đột nhiên tràn ngập SAM và cần phải tập trung cao độ để tránh bị bắn trúng.”
SAM-6 không phải là hệ thống tiên tiến duy nhất mà người Ai Cập triển khai một cách sáng tạo. Bộ binh chiến đấu của Sadat vượt kênh bằng tên lửa chống tăng vác vai Sagger. Vào thời điểm đó, một quả lựu đạn phóng bằng tên lửa thông thường chỉ có độ chính xác ở khoảng cách vài trăm thước. Ngược lại, Saggers có tầm bắn hơn 3km. Người điều khiển Sagger sẽ triển khai bệ phóng và sau đó ẩn nấp gần đó. Từ vị trí an toàn này, anh ta sẽ bắn tên lửa vào một chiếc xe tăng đang đến gần. Vì tên lửa vẫn được kết nối bằng một sợi dây dài với trạm điều khiển nên người điều khiển, sử dụng cần điều khiển, có thể hướng chúng đến mục tiêu với độ chính xác chết người.
Từ năm 1967 đến năm 1973, các sĩ quan Ai Cập đã được đào tạo về học thuyết của IDF. Người Ai Cập hiểu rằng các chỉ huy xe tăng của Israel sẽ phản công ngay cơ hội đầu tiên. Người Israel đã làm theo kịch bản đó vào ngày 8/10, ngày trở thành ngày khét tiếng nhất trong lịch sử IDF. Khi xe tăng Patton của Israel xông lên tấn công đối thủ, tên lửa Sagger dễ dàng xuyên thủng lớp giáp của chúng. Một đơn vị mất 22 trong số 25 xe tăng trong vòng 5 phút. Trong toàn bộ cuộc chiến, Israel đã mất tổng cộng khoảng 1.000 xe tăng, với hơn 100 chiếc trong ngày đầu tiên—hầu hết vào tay Sagger.
Xem tiếp Kỳ 3: Gió đảo chiều, mắt xích yếu Syria
Thu Hằng/Báo Tin tức (Theo Mosaic Magazine)