Ngai vàng lung lay trước 'sóng cả' cách mạng: Khoảnh khắc Bảo Đại buông bỏ quyền lực

Trong Chiếu kêu gọi động viên toàn dân của Bảo Đại được soạn thảo vào ngày 17/8/1945 có đoạn viết: "Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ."

Ở ngoài Bắc, phong trào vũ trang kháng Nhật ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã được thành lập và làm chủ nông thôn của nhiều tỉnh thượng du và trung du. Chính quyền cách mạng đã được thành lập ở khu giải phóng gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Hơn một triệu đồng bào trong khu giải phóng đã được miễn trừ sưu thuế, có thêm ruộng đất, được hưởng các quyền tự do dân chủ...

Nhưng tác giả Phạm Khắc Hòe (từng giữ chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại, tương đương với Chánh văn phòng, chịu trách nhiệm quản lý mọi công việc liên quan đến nơi làm việc và tiếp khách của vua) viết trong cuốn hồi ký "Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc" xuất bản lần đầu năm 1981 rằng: "Tất cả những sự thật vĩ đại ấy, cho đến cuối tháng 6/1945, ở Huế, chúng tôi đều mờ mịt, không nghe biết gì hết. Nhưng khi sấm sét đã đến gần thì dù nút cả hai tai lại nó cũng vẫn dội vào."

NỘI CÁC THÂN NHẬT LUNG LAY

Sang đầu tháng 7/1945, phong trào Việt Minh ở ngoài Bắc đã vang dội đến Huế, và nội các thân Nhật của Trần Trọng Kim dần lung lay, một số bộ trưởng bắt đầu tính chuyện rút lui.

Ngày 6/8/1945, Bảo Đại chấp nhận đơn từ chức của toàn thể nội các Trần Trọng Kim và giao lại cho Trần Trọng Kim thành lập nội các mới.

Chiều 12/8/1945, Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe đưa lên cho Bảo Đại phê chuẩn dự thảo đạo Dụ đổi nội các từ từ chức thành nội các lâm thời, theo đề nghị của Trần Trọng Kim. Nhân dịp, ông Hòe nêu lên với Bảo Đại một câu hỏi lửng lơ:

– Chúng tôi không hiểu tại sao không có một ai hưởng ứng lời mời của ông Kim về việc thành lập nội các mới cả? Không biết ông Kim có tâu đối chi với Ngài về vấn đề ấy không?

– Theo ông Kim cho biết thì những người ông ta mời đều là rất cách mạng, rất tả. Có lẽ điều đó không vừa lòng người Nhật nên họ đã chặn điện lại.

– Tâu, nhưng hai người được mời có mặt ở Huế là ông Tôn Quang Phiệt và ông Bùi Công Trừng cũng đều từ chối cả.

– Thế ông Phiệt có cho ông biết vì sao ông ta từ chối không?

– Tâu. Theo ý ông Phiệt thì trên thế giới Nhật sắp thua đến nơi rồi. Còn trong nước thì khí thế cách mạng của quần chúng mỗi giờ lên cao, bão táp cách mạng nhất định sẽ nổi lên nay mai.

Thấy Bảo Đại đổi sắc mặt, tỏ vẻ lo âu, ông Hòe bèn nhắc lại cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 với số phận bi đát của vua Lui thứ 16, rồi hạ giọng nói một cách nhẹ nhàng, cảm động "có lẽ Ngài không nên chờ nước đến chân mới nhảy".

SẴN SÀNG GIAO CHÍNH QUYỀN CHO VIỆT MINH

Chiều 15/8/1945, được tin Nhật đã đầu hàng Đồng Minh không điều kiện, ông Hòe liền chạy đi báo cáo với Bảo Đại:

"Thật à! Thật à!" Bảo Đại kêu lên một cách sửng sốt rồi bảo ông Hòe đi gặp Trần Trọng Kim hỏi xem ông ta có ý kiến gì trước tình hình mới.

Ông Hòe đến dinh Tổng trưởng Nội các thì nghe nói Trần Trọng Kim ốm nằm trên gác, không xuống làm việc. Ông Hòe lên thăm, Trần Trọng Kim tỏ ra chán nản và không có ý kiến gì ngoài sự hoài nghi tin Nhật đã đầu hàng.

Sáng 17/8/1945, tại cuộc họp nội các do Bảo Đại chủ trì, Trần Đình Nam - Bộ trưởng Bộ Nội vụ - cho biết toàn dân đang thắt chặt đoàn kết xung quanh tổ chức "mạnh nhất và hăng hái nhất" là Việt Minh, đồng thời nhận định rằng Bảo Đại nên thoái vị.

Trần Trọng Kim cực lực phản đối, lên án Trần Đình Nam dám đòi nhà vua bỏ ngôi báu.

Vũ Văn Hiền – Bộ trưởng Bộ Tài chính - thì đồng ý giao quyền bính cho Việt Minh, nhưng về mặt hình thức, vẫn phải giữ chế độ quân chủ với nội các Việt Minh thì mới "hợp pháp".

Với sự thuyết phục của một số thành viên, toàn thể nội các đồng ý giao cho ông Hoè thảo đạo Dụ số 105 ngày 17/8/1945, gồm hai điểm chính: điểm thứ nhất: vua sẵn sàng giao chính quyền cho Việt Minh là tổ chức đấu tranh nhiều nhất cho quyền lợi của nhân dân và mời các lãnh tụ Việt Minh về Huế thành lập Nội các. Điểm thứ hai: vấn đề chính thể sẽ do nhân dân quyết định sau, vua cam đoan sẽ làm theo ý chí của nhân dân.

Đạo Dụ này tạo điều kiện cho Bảo Đại vẫn giữ được ngai vàng mà không phải làm gì cả, nên ông ta tỏ ra rất hào hứng khi hạ bút phê chuẩn.

Ngoài ra, Trần Đình Nam còn đề nghị Bảo Đại hạ Chiếu kêu gọi động viên toàn dân.

Bản chiếu do Phạm Khắc Hòe soạn thảo gồm có ba đoạn: đoạn một khẳng định tư cách và ý chí của dân tộc ta quyết tâm giữ vững nền độc lập; đoạn hai kêu gọi mọi người ái quốc ra phò vua giúp nước; đoạn ba nêu cao tinh thần hy sinh của nhà vua.

"Muốn củng cố nền độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc, Trẫm sẵn sàng hy sinh về tất cả các phương diện. Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hy sinh như Trẫm..."

Nghe ông Hòe đọc xong đoạn ba, Bảo Đại nói: "Trẫm thích cách nói như vậy. Giao cho Văn phòng làm văn bản chiều nay đưa Trẫm ký..."

Theo ông Hòe, thế là cuộc vận động thoái vị đã tiến được một bước rất dài, chắc chắn sẽ thành công. Nhưng Bảo Đại vẫn thắc mắc không biết lãnh tụ Việt Minh là ai, có đồng ý giữ chính thể quân chủ không?

Sáng 20/8/1945, sau khi ra phố xem và biết chắc rằng những lời đồn đại về một bức thư kêu gọi tổng khởi nghĩa của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc mới được dán lên ở nhiều nơi công cộng là đúng, ông Hòe liền về báo cáo việc ấy với Bảo Đại và nói thêm, theo lời lẽ của bức thư, thì chắc chắn nhà cách mạng nổi tiếng ấy là người lãnh đạo Việt Minh.

– Thế là ông muốn khuyên Trẫm thoái vị, nhường tất cả quyền bính cho Việt Minh phải không?

– Tâu. Đúng như vậy.

– Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là "Thánh Nguyễn Ái Quốc" thì tôi sẵn sàng thoái vị ngay.

Trong khi đó thì không khí khởi nghĩa tưng bừng khắp Huế: nhà nào cũng nhộn nhịp may cờ, dán cờ, viết khẩu hiệu; các đoàn thanh niên nam nữ mang gậy gộc, giáo mác bắt đầu từ nông thôn kéo về thành phố; thanh niên tiền tuyến, bảo an binh và cả lính hộ thành đều đã ngả theo cách mạng.

Theo tác giả Phạm Khắc Hòe, Huế là một thành phố nhiều người đeo bài ngà nhất trong toàn cõi Việt Nam, mà từ ngày 22/8/1945, tuyệt đối không thấy một người nào đeo bài ngà đi ngoài phố nữa...

TỪ VUA BẢO ĐẠI THÀNH CÔNG DÂN VĨNH THỤY

Tới ngày 30/8/1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại được tổ chức ở Ngọ Môn.

Khoảng 2 giờ trưa, hàng vạn đồng bào bắt đầu tập hợp trước Ngọ Môn. Từ các ngả đường, những đoàn người vẫn tiếp tục kéo đến mỗi lúc một đông, đứng chật ních cả bãi cỏ rất lớn trước Ngọ Môn.

Đúng 4 giờ, xe Phái đoàn Chính phủ cách mạng cắm cờ đỏ sao vàng tiến thẳng vào cửa chính của Ngọ Môn, giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt của hơn năm vạn nhân dân nội, ngoại thành Huế.

Phái đoàn trên xe bước xuống, ông Hòe và Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn (em họ, cánh tay phải đắc lực, người bạn thân nhất của Bảo Đại) đón Phái đoàn lên lầu Ngũ phụng của Ngọ Môn. Ở đây, Bảo Đại khăn vàng, áo vàng, quần trắng, giày dứa thêu rồng ra đón Phái đoàn.

Khi buổi lễ bắt đầu, ông Trần Huy Liệu - Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ - nói cho đồng bào rõ ý nghĩa của việc Phái đoàn thay mặt Chính phủ cách mạng làm thời vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại và đọc cho đồng bào nghe bức điện mới nhận được từ Hà Nội cho biết Chính phủ lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân tại Thủ đô Hà Nội ngày 2/9/1945 và Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.

Ông Trần Huy Liệu cũng đọc cho đồng bào nghe danh sách Chính phủ lâm thời.

Những tiếng vỗ tay và hô khẩu hiệu của đồng bào kéo dài một hồi lâu.

Sau đó, Bảo Đại đọc tờ Chiếu thoái vị một cách xúc động có khi tắt cả tiếng. Bảo Đại đọc xong thì trên kỳ đài cờ vàng của nhà vua từ từ hạ xuống và lá cờ nền đỏ thắm tươi long lanh năm cánh sao vàng được kéo lên giữa những tiếng vỗ tay, những tiếng hoan hô như sấm cắt ngang bởi 21 phát súng lệnh vang lên chào quốc kỳ mới của Tổ quốc hồi sinh.

Tiếng súng lệnh chấm dứt, Bảo Đại hai tay đưa lên trao cho ông Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ quốc ấn bằng vàng và quốc kiếm để trong vỏ bằng vàng nạm ngọc.

Trong hồi ký của mình, ông Trần Huy Liệu kể lại: "Khi tiếp nhận chiếc ấn vàng, tôi đã phải bất ngờ bởi cái trọng lượng của nó: 7kg vàng! Nói thật với các bạn nhé, khi giơ hai tay đỡ chiếc ấn vàng, tôi có ngờ đâu nó nặng đến thế, nên đã không chuẩn bị sẵn gân cốt và tư thế từ trước. Do vậy, khi chiếc ấn nặng trĩu đã nắm trong tay, tôi phải cố vận dụng hết mọi sức lực chỉ để chống đỡ nó, đừng để nó trĩu xuống, nhất là đừng để cho con người của tôi phải nghiêng ngã, vì tư thế của tôi lúc ấy có phải thuộc riêng của tôi đâu, mà là tư thế của một vị đại diện cho Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang làm một việc rất quan trọng trong giờ phút lịch sử này!"

Vua Bảo Đại trao quốc ấn và quốc kiếm cho Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ Trần Huy Liệu. Ảnh tư liệu

Cũng trong buổi lễ, ông Liệu còn đọc bản tuyên bố của Đoàn đại biểu Chính phủ, nêu rõ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả của hàng mấy chục năm tranh đấu anh dũng kiên cường, bền bỉ của nhân dân cả nước, tuyên bố chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ và nhấn mạnh chính sách của chính thể Dân chủ cộng hoà là đoàn kết mọi tầng lớp quốc dân để giữ nước và dựng nước...

Lắng nghe bản tuyên bố của Đoàn đại biểu chính phủ xong, mấy vạn đồng bào lại vỗ tay và hô khẩu hiệu vang lên cả một góc trời: "Việt Nam độc lập muôn năm!" "Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!"

Cuối cùng, theo đề nghị của Bảo Đại, Đoàn đại biểu Chính phủ tặng ông ta một Huy hiệu cờ đỏ sao vàng. Ông Nguyễn Lương Bằng cài huy hiệu lên ngực Bảo Đại, từ nay trở thành người công dân Vĩnh Thụy, đồng thời ông Cù Huy Cận công bố điều ấy cho đồng bào biết và đề nghị đồng bào hoan nghênh người công dân Vĩnh Thụy.

Vĩnh Thụy tươi cười giơ tay vẫy chào đồng bào và ra về.

Theo doisongphapluat.nguoiduatin.vn