Sự kiện này không chỉ là sự ghi nhận, mà còn là lời tri ân sâu sắc đối với một biểu tượng phụ nữ Việt Nam bất khuất, kiên cường và trí tuệ, một người đã dành gần trọn một thế kỷ sống và cống hiến cho đất nước.
Việc phong tặng danh hiệu cao quý này không chỉ tôn vinh những đóng góp to lớn của cá nhân bà, mà còn là sự khẳng định một cách trọn vẹn tầm vóc của bà trong lịch sử ngoại giao và chính trị Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm, chúc mừng nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Từ cô gái Sài Gòn đến nữ chiến sĩ cách mạng kiên cường
Bà Nguyễn Thị Bình, tên khai sinh là Nguyễn Châu Sa, sinh năm 1927 tại Gia Định (Sài Gòn) trong một gia đình trí thức yêu nước. Ngay từ khi còn là một thiếu nữ, bà đã sớm thể hiện tinh thần yêu nước và lòng căm thù đế quốc sâu sắc.
Năm 1943, khi mới 16 tuổi, bà đã tích cực tham gia phong trào học sinh, sinh viên chống chế độ thực dân. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, bà chính thức bước vào con đường cách mạng, gia nhập Hội Phụ nữ cứu quốc và các tổ chức tiền thân của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Những năm tháng hoạt động trong lòng địch đã tôi luyện bản lĩnh và ý chí của bà. Trong kháng chiến chống Pháp, bà hoạt động ở miền Nam và bị chính quyền thực dân bắt giam từ năm 1951 đến 1953.
Dù phải chịu đựng sự tra tấn, giam cầm khắc nghiệt, bà vẫn giữ vững khí tiết và kiên định với lý tưởng cách mạng của mình. Sau khi ra tù, bà tiếp tục hoạt động bí mật, và rồi được phân công công tác đối ngoại, một lĩnh vực sẽ làm nên tên tuổi và di sản vĩ đại của bà.
Chính những trải nghiệm trong những năm tháng hoạt động cách mạng đã tạo nên một ý chí sắt đá, một tinh thần "thép" trong con người bà, để rồi sau này, bà trở thành một nhà ngoại giao bản lĩnh, kiên cường trên bàn đàm phán.
"Bông hồng khiêu vũ giữa bầy sói" và Hiệp định Paris lịch sử

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris (Pháp). (Ảnh: Tư liệu)
Tên tuổi của bà Nguyễn Thị Bình gắn liền với Hội nghị Paris (1968-1973) , cuộc đàm phán lịch sử chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Với cương vị Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời, bà đã đối mặt với những chính trị gia lão luyện của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn trong suốt 5 năm đàm phán cam go.
Với phong thái thanh lịch, dịu dàng nhưng đầy bản lĩnh, trí tuệ, cùng khả năng nói tiếng Pháp lưu loát, bà đã kiên quyết bảo vệ lập trường độc lập, chủ quyền của dân tộc, đồng thời mềm dẻo trong sách lược ngoại giao.
Bà Socorro Gomes Coelho, nguyên Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới nhớ lại những năm tháng đồng hành cùng phong trào phản chiến: “Madame Bình là cái tên tôi thường xuyên nghe đến trong thời gian đó, khi chúng tôi, những sinh viên trẻ tham gia biểu tình đòi chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Bà Bình khi đó được xem như một trong những biểu tượng của phụ nữ chúng tôi. Bé nhỏ, nền nã trong tà áo dài truyền thống Việt Nam nhưng rất đanh thép khi tham gia họp báo”.
Báo chí phương Tây đã phải thán phục và gọi bà là "Bông hồng khiêu vũ giữa bầy sói" thể hiện sự khâm phục về một người phụ nữ mảnh mai nhưng đầy bản lĩnh, sẵn sàng tranh luận sòng phẳng với các đối thủ ngoại giao hàng đầu thế giới.
Hiệp định Paris, được ký ngày 27 tháng 1 năm 1973, là thành quả lớn nhất trong sự nghiệp ngoại giao của bà. Nó không chỉ chấm dứt chiến tranh, mà còn mở đường cho thắng lợi mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Bà đã chứng minh rằng, trí tuệ, bản lĩnh và sự khéo léo có thể làm thay đổi cục diện lịch sử.
Ở đâu có bà Bình, người ta không còn nhìn thấy ai khác…, khi nghe bà Bình nói, người ta không còn muốn nghe ai khác…, bà bí ẩn…, tinh tế
Nhà văn Thụy Điển Sara Lidman viết về Bà Nguyễn Thị Bình trong cuốn sách “Trong trái tim thế giới”
Người thắp sáng tri thức giữa thời hậu chiến

Bà Nguyễn Thị Bình đọc tài liệu của các tổ chức gửi. (Ảnh: Xuân Hải)
Trong ký ức của nhiều thế hệ thầy trò, hình ảnh Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình những năm sau ngày thống nhất luôn gắn liền với đôi mắt sáng, dáng vẻ giản dị và tiếng nói nhẹ nhưng vang xa.
Bước vào nhiệm kỳ Bộ trưởng Bộ Giáo dục từ tháng 7/1976, bà nhận nhiệm vụ trong một bối cảnh đặc biệt: đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, hàng triệu trẻ em thiếu trường lớp, có những vùng hơn 90% dân cư miền Nam còn mù chữ.
Không phải là người xuất thân từ ngành sư phạm, nhưng bà đem vào giáo dục tinh thần của một nhà ngoại giao kiên định, sáng suốt và biết lắng nghe.
Bà đã chỉ đạo chiến dịch xóa mù chữ quy mô lớn, đưa ánh sáng tri thức đến với hơn 1,4 triệu người chỉ trong vài năm. Bà kiên trì thúc đẩy việc thống nhất chương trình và hệ thống giáo dục giữa hai miền, để trẻ em từ Cà Mau đến Lạng Sơn học chung một bộ sách, cùng mơ về tương lai đất nước.
Cải cách giáo dục theo Nghị quyết 14 (1979) dưới sự dẫn dắt của bà đặt nền móng cho hệ thống trường lớp phổ thông, sư phạm và mầm non hiện đại hơn. Bà cũng mở rộng hợp tác quốc tế, mời chuyên gia, học giả nước ngoài hỗ trợ đào tạo giáo viên, gửi sinh viên ưu tú đi học tập ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Người ta vẫn nhớ những chuyến công tác của bà tới tận vùng sâu vùng xa, nơi bùn đất còn ngập lối đến trường. Bà không chỉ đến để nghe báo cáo, mà để ngồi cùng thầy trò, chia sẻ bữa cơm đạm bạc, hỏi han từng đứa trẻ về ước mơ.
Chính tình thương, sự gần gũi ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cả một ngành giáo dục đang nỗ lực vươn mình giữa muôn vàn khó khăn. Những dấu ấn ấy không chỉ là thành tựu quản lý, mà là di sản tinh thần - ngọn lửa yêu học, yêu nghề vẫn còn cháy trong lòng nhiều thế hệ giáo viên và học sinh hôm nay.
Từ Phó Chủ tịch nước đến biểu tượng phụ nữ Việt Nam
Sau ngày đất nước thống nhất, bà Nguyễn Thị Bình tiếp tục giữ nhiều vị trí quan trọng, trong đó nổi bật là Phó Chủ tịch nước từ năm 1992 đến 2002. Trên cương vị này, bà đã tích cực thúc đẩy chính sách đối ngoại, mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt chú trọng công tác vì hòa bình, quyền phụ nữ và quyền trẻ em.
Bà từng là Chủ tịch Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam. Ở mỗi vai trò, bà đều để lại những dấu ấn bền lâu.
Không chỉ là một nhà ngoại giao xuất sắc, bà Nguyễn Thị Bình còn là biểu tượng của một thế hệ phụ nữ Việt Nam: cứng rắn về nguyên tắc, nhưng mềm mại trong ứng xử. Phong thái thanh lịch, giản dị, đôi khi kèm nụ cười duyên, nhưng bên trong là một ý chí sắt đá. Bà chính là biểu tượng sáng ngời của phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Đề xuất phong tặng vào thời điểm ý nghĩa

Ngày 12/8/2025, Bộ Nội vụ đã bắt đầu tổ chức lấy ý kiến nhân dân về đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Nguyễn Thị Bình. Đây là một bước trong quy trình chặt chẽ theo Luật Thi đua, Khen thưởng và Nghị định 152/2025/NĐ-CP, nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch.
Việc phong tặng danh hiệu ở thời điểm này, khi bà đã nghỉ hưu hơn 20 năm và tuổi đã cao (98 tuổi) là vô cùng hợp lý và xứng đáng.
Năm 2025 đánh dấu 50 năm đất nước thống nhất (1975-2025), 52 năm ký Hiệp định Paris, 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đây là dịp quan trọng để tri ân những nhân vật đã có đóng góp quyết định vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, trong đó có bà Nguyễn Thị Bình.
Danh hiệu Anh hùng Lao động thường được xét sau khi cá nhân đã hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp hoặc ở giai đoạn có thể tổng kết toàn diện đóng góp. Với trường hợp của bà Bình, hồ sơ đề nghị chỉ được chuẩn bị gần đây theo đúng tiêu chí và quy định pháp luật mới. Điều này đảm bảo việc xét duyệt được thực hiện một cách chính xác, đầy đủ và đúng quy trình.
Sau nhiều thập kỷ, các công trình nghiên cứu, hồi ký và lời chứng của các nhân chứng quốc tế đã khẳng định rõ hơn vai trò lịch sử to lớn của bà. Việc vinh danh lúc này là sự tổng kết, khẳng định tầm vóc của bà trong lịch sử ngoại giao Việt Nam một cách trọn vẹn nhất.
Từ một thiếu nữ yêu nước bị tù đày, bà Nguyễn Thị Bình đã trở thành một nhà ngoại giao mang tầm vóc quốc tế, góp phần định hình diện mạo Việt Nam trên trường quốc tế nửa sau thế kỷ XX.
Dù tuổi đã cao, bà vẫn luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội, đặc biệt là giáo dục, hòa bình và phát triển bền vững. Đối với nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam, bà là một hình mẫu để noi theo.
Đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình không chỉ là sự công nhận cá nhân, mà còn là lời tri ân với thế hệ những người đã hiến dâng trọn đời cho độc lập, tự do và hòa bình của Tổ quốc.
Đó cũng là thông điệp gửi đến các thế hệ hôm nay và mai sau: Bản lĩnh, trí tuệ và lòng yêu nước luôn là sức mạnh giúp dân tộc vượt qua mọi thử thách.
Khôi Nguyên/Theo VTC News