Tại sao nguy cơ chiến tranh tại Eo biển Đài Loan đang ngày càng cao hơn?

Nỗi lo của Bắc Kinh về tương lai có thể sớm dẫn đến một tính toán sai lầm chết người.

Nguồn:  Bonny Lin, John Culver, và Brian Hart, “The Risk of War in the Taiwan Strait Is High—and Getting Higher”, Foreign Affairs, 15/05/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Tình hình căng thẳng ở eo biển Đài Loan đang gia tăng. Ngay cả trước khi Đài Loan bầu ông Lại Thanh Đức làm tổng thống vào tháng 1 năm 2024, Trung Quốc đã mạnh mẽ phản đối ông, gọi ông là “kẻ ly khai” và “kẻ gây chiến”. Trong những tháng gần đây, Bắc Kinh đã gia tăng các cuộc công kích bằng lời lẽ: vào giữa tháng 3, người phát ngôn Văn phòng Sự vụ Đài Loan của Trung Quốc gọi ông Lại là “kẻ phá hoại hòa bình eo biển” và cáo buộc ông đẩy Đài Loan đến “bờ vực chiến tranh nguy hiểm”. Hai tuần sau, khi Bắc Kinh tiến hành một cuộc tập trận quân sự quy mô lớn xung quanh Đài Loan, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lan truyền các hình ảnh biếm họa mô tả ông Lại như một con côn trùng. Còn có một hình ảnh còn vẽ đôi đũa gắp “ký sinh trùng” Lại ra khỏi một Đài Loan đang bốc cháy.

Nỗ lực bôi xấu ông Lại phản ánh sự lo lắng sâu sắc của Bắc Kinh về tương lai quan hệ hai bờ eo biển, đặc biệt là điều mà Trung Quốc coi là mong muốn của ông Lại trong việc thúc đẩy Đài Loan độc lập. So với người tiền nhiệm Thái Anh Văn, ông Lại đã có lập trường mạnh mẽ và thách thức hơn trước các mối đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc đối với hòn đảo, điều này thể hiện rõ trong lời lẽ và các biện pháp chính sách mới của ông. Vào tháng 3 vừa qua, ông Lại gọi Bắc Kinh là “thế lực ngoại bang thù địch” và công bố kế hoạch thực hiện 17 chiến lược toàn diện để bảo vệ hòn đảo khỏi sự xâm nhập của Trung Quốc.

Việc Trung Quốc bôi nhọ ông Lại gợi nhớ đến những lời lên án của Bắc Kinh đối với Trần Thủy Biển, tổng thống Đài Loan khoảng hai thập kỷ trước. Bắc Kinh gọi ông Trần là “kẻ ly khai ngoan cố” và “kẻ gây rối” đang “đi gần đến bờ vực, và không có dấu hiệu nào cho thấy ông ta sẽ ghìm cương ngựa”. Bắc Kinh đã gia tăng áp lực bên ngoài đối với ông Trần và hợp tác với các đảng đối lập ở Đài Loan để cản trở chương trình nghị sự chính trị của ông. Trung Quốc đã suýt chút nữa sử dụng vũ lực quân sự chống lại hòn đảo vào năm 2008 và có lẽ đã thực hiện nếu ông Trần thành công hơn trong việc giành được sự ủng hộ của công chúng Đài Loan cho cuộc trưng cầu dân ý của mình.

Thái độ hiện tại của Bắc Kinh đáng lo ngại sâu sắc đối với Washington. Trung Quốc không coi sự lãnh đạo của ông Lại chỉ đơn thuần là sự tiếp nối của bà Thái. Thay vào đó, Bắc Kinh coi ông Lại là một người gây rối giống như ông Trần và đang đối phó với ông tương tự như vậy. Kể từ khi ông Lại trở thành tổng thống, Bắc Kinh đã thể hiện sự sẵn sàng ngày càng tăng trong việc sử dụng sức mạnh quân sự để đe dọa và trừng phạt hòn đảo. Và hiện tại, họ đã chuẩn bị tốt hơn nhiều để sử dụng vũ lực chống lại Đài Loan so với 20 năm trước.

Những chia rẽ rõ ràng trong chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump về cách tiếp cận Đài Loan càng làm gia tăng những rủi ro này. Nếu Bắc Kinh nghi ngờ cam kết của Mỹ đối với hòn đảo, điều đó có thể khuyến khích Trung Quốc thực hiện các hành động cưỡng ép hơn nữa đối với Đài Loan. Tất cả những yếu tố này làm tăng đáng kể khả năng Bắc Kinh sẽ tính toán sai lầm – và rất có thể họ sẽ sử dụng vũ lực chống lại hòn đảo vào khoảng năm 2027, khi Trung Quốc tiến gần đến các cột mốc hiện đại hóa quân sự quan trọng và Đài Loan chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo.

Vòng xoáy leo thang

Những luận điệu chính thức của Trung Quốc từ lâu đã nhấn mạnh rằng việc thống nhất hòa bình với Đài Loan là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong những tháng gần đây, Bắc Kinh ngày càng lo ngại rằng ông Lại có ý định tách rời Đài Loan khỏi Trung Quốc một cách có hệ thống. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã cáo buộc ông Lại quân sự hóa xã hội Đài Loan khi ông ưu tiên các nỗ lực tăng cường khả năng phòng thủ của Đài Loan, tái lập hệ thống tòa án quân sự để xử lý các vụ gián điệp và phản quốc của các quan chức quân đội Đài Loan, đồng thời đẩy nhanh quá trình huấn luyện và chuẩn bị cho khả năng Trung Quốc xâm lược Đài Loan. Bắc Kinh đặc biệt chỉ trích các nỗ lực của ông Lại nhằm ngăn chặn sự xâm nhập và chiến tranh nhận thức của Trung Quốc, cho rằng ông Lại đang ngăn cản việc nối lại du lịch, đàn áp và truy tố các nhóm và cá nhân thân Trung Quốc, ngăn cản người dân Đài Loan nộp đơn xin giấy tờ tùy thân của Trung Quốc, áp đặt các rào cản đối với hợp tác học thuật giữa các trường đại học ở Trung Quốc và Đài Loan, và thay đổi sách giáo khoa của Đài Loan để làm suy yếu sự gắn kết lịch sử và văn hóa.

Vào tháng 3, một phát ngôn viên của chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng 17 chiến lược của ông Lại nhằm “cản trở các hoạt động trao đổi và hợp tác trên eo biển Đài Loan”. Trung Quốc cũng lên án các nỗ lực của ông Lại nhằm khuyến khích các doanh nghiệp Đài Loan đầu tư nhiều hơn vào các quốc gia dân chủ, bao gồm cả Mỹ. Bắc Kinh cho rằng những biện pháp này đã thất bại và chế nhạo Đài Bắc khi Mỹ đe dọa áp đặt thuế quan cao đối với hòn đảo vào tháng Tư.

Nhiều nhà phân tích Trung Quốc tin rằng vị thế chính trị của ông Lại yếu hơn so với người tiền nhiệm Thái Anh Văn. Nhưng họ lo ngại rằng sự yếu kém này có thể khiến ông Lại trở nên táo bạo hơn, vì ông có thể muốn tăng cường đối đầu với Trung Quốc để cố gắng giành được sự ủng hộ của công chúng.

Dựa trên phân tích này về ông Lại và tình hình nội bộ ở Đài Loan, những tiếng nói diều hâu ở Trung Quốc đang thúc giục một cách tiếp cận ngày càng hung hăng hơn đối với Đài Loan. Một số người kêu gọi sử dụng vũ lực quân sự chống lại hòn đảo hoặc khôi phục cái gọi là các chiến dịch nội chiến, những cách thức phi hòa bình để Bắc Kinh thống nhất  hòn đảo, chẳng hạn như áp đặt phong tỏa hàng hải đối với hòn đảo. Những người diều hâu khác đã công khai đặt câu hỏi liệu Bắc Kinh có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng ở Đài Bắc tương tự như Sự kiện Tây An năm 1936 hay không, trong đó các tướng lĩnh phục vụ dưới quyền Tưởng Giới Thạch – người đứng đầu chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và lực lượng Quốc dân đảng của họ – đã bắt giữ Tưởng và buộc ông ta phải liên minh với Đảng Cộng sản Trung Quốc để chống lại quân đội Nhật Bản đã xâm lược miền bắc Trung Quốc.

Một sự tương đồng đáng chú ý hơn có thể là một trong những giai đoạn nguy hiểm nhất trong nhiệm kỳ của ông Trần Thủy Biển. Để tăng tỷ lệ cử tri đi bầu trong cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan vào tháng 3 năm 2008, ông Trần đã kết hợp cuộc bỏ phiếu đó với một cuộc trưng cầu dân ý phổ biến về việc liệu hòn đảo có nên gia nhập Liên Hợp Quốc dưới tên Đài Loan thay vì Trung Hoa Dân Quốc hay không.

Đề xuất này đã tiến rất gần đến việc vượt qua lằn ranh đỏ của Bắc Kinh: vào năm 2005, Bắc Kinh đã thông qua Luật Chống Ly khai, trong đó quy định quyền sử dụng vũ lực quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan trong một số điều kiện, bao gồm cả khi “xảy ra các sự kiện lớn dẫn đến việc Đài Loan ly khai khỏi Trung Quốc”. Khi luật được thông qua, một phát ngôn viên của chính phủ Trung Quốc gợi ý rằng một cuộc trưng cầu dân ý trên toàn đảo có thể được coi là một rắc rối lớn. Và vào năm 2007, sau khi ông Trần đề xuất cuộc trưng cầu dân ý, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã cảnh báo Tổng thống Mỹ George W. Bush rằng Bắc Kinh hiểu cuộc trưng cầu dân ý ở Đài Loan theo cách này.

Bắc Kinh đã đưa ra những cảnh báo này kèm theo các động thái quân sự quan trọng. Trung Quốc đã tăng cường triển khai tên lửa đạn đạo tầm ngắn nhắm vào Đài Loan gấp bảy lần từ đầu nhiệm kỳ của ông Trần vào năm 2000 đến đầu năm 2008. Trước cuộc trưng cầu dân ý, chính quyền Bush đã phát hiện ra rằng PLA đã đặt các đơn vị tên lửa tầm ngắn di động gần eo biển Đài Loan trong tình trạng báo động cao. Cộng đồng quân sự và tình báo Mỹ tin rằng Trung Quốc có thể bắn tên lửa xung quanh Đài Loan, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1996 – hoặc tệ hơn, Trung Quốc thực sự có thể tấn công hòn đảo.

May mắn thay, cuộc khủng hoảng năm 2008 đã qua mà không đổ máu. Tỷ lệ cử tri đi bầu thấp đã làm mất hiệu lực cuộc trưng cầu dân ý của ông Trần, và ứng cử viên Quốc dân đảng đối lập đã đánh bại ứng cử viên của Đảng Dân Tiến của ông Trần trong cuộc đua tổng thống. Việc Mỹ triển khai lực lượng đáng kể gần Đài Loan cũng có thể đã khiến Bắc Kinh phải chững lại. Nhận thấy nguy cơ leo thang nghiêm trọng, Washington đã công khai phản đối cuộc trưng cầu dân ý của ông Trần và triển khai hai tàu sân bay ở phía đông bắc và đông nam Đài Loan, và một chiếc thứ ba gần Singapore, trước cuộc bỏ phiếu. Tuy nhiên, sự kiện này cho thấy Bắc Kinh nghiêm túc về việc sử dụng vũ lực nếu bị khiêu khích bởi những gì họ coi là các hoạt động “ủng hộ độc lập”.

Điềm gở

Kể từ cuộc khủng hoảng năm 2008, năng lực quân sự của Trung Quốc đã tăng trưởng đáng kể. Lục quân, hải quân và không quân của họ đã hiện đại hóa nhanh chóng, và lực lượng tên lửa thông thường của họ hiện có một loạt tên lửa tầm xa mạnh mẽ hơn nhiều, bao gồm cả tên lửa đạn đạo siêu thanh và chống hạm tiên tiến. Trung Quốc cũng đã tăng gấp đôi quy mô kho vũ khí hạt nhân của mình trong năm năm qua. Bên cạnh những tiến bộ về năng lực cứng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tiến hành các cuộc cải cách tổ chức sâu rộng để cho phép PLA thực hiện các hoạt động công nghệ cao phối hợp hơn, và ông đã tiến hành các chiến dịch chống tham nhũng chưa từng có để loại bỏ các trở ngại đối với khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội.

Sự sẵn sàng sử dụng quân đội của Bắc Kinh cũng đang gia tăng. Trung Quốc từ lâu đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự để rèn luyện năng lực và đe dọa Đài Loan. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu từ năm 2008 đến 2016, Bắc Kinh đã hạn chế những hành động gây hấn này khi họ tìm cách khuyến khích sự gắn kết lớn hơn giữa hai bờ eo biển. Nhưng Trung Quốc đã nối lại các cuộc tập trận lớn khi bà Thái Anh Văn, người nhấn mạnh chủ quyền và an ninh của Đài Loan, kế nhiệm ông Mã. Vào tháng 8 năm 2022, vào cuối nhiệm kỳ của bà Thái, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận lớn hơn và gây hấn hơn gần Đài Loan so với bất kỳ cuộc tập trận nào trước đây.

Giờ đây, tốc độ và quy mô các hoạt động quân sự của Trung Quốc đang gia tăng. Chưa đầy một năm sau khi ông Lại nhậm chức, Trung Quốc đã phá vỡ tiền lệ bằng cách tổ chức ba cuộc tập trận quy mô lớn, được đặt tên để nâng cao tầm quan trọng và phân biệt chúng với các cuộc tập trận nhỏ hơn.

Trong một thay đổi đáng kể, PLA hiện đang sử dụng các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn như vậy để trừng phạt chính quyền của ông Lại vì các hành động chính trị trong nước. Tất cả các cuộc tập trận lớn trước đây của Trung Quốc – vào các năm 1995 đến 1996, 2022 và 2023 – đều được tiến hành sau khi các nhà lãnh đạo Đài Loan đến thăm Mỹ hoặc gặp gỡ các quan chức cấp cao của Mỹ. Tháng 12 năm ngoái, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc tập trận lớn – nhưng không được đặt tên – sau khi ông Lại dừng chân ở Hawaii và Guam trong chuyến công du Thái Bình Dương. Nhưng cả ba cuộc tập trận quy mô lớn gần đây đều phản ứng lại các bài phát biểu hoặc tuyên bố trong nước của ông Lại.

Các hoạt động quân sự này đã trở nên hung hăng hơn, khó đoán hơn và phức tạp hơn rõ rệt. Trong cuộc tập trận tháng Tư, mang tên “Lôi Đình Eo Biển – 2025A”, các tàu hải quân của PLA được cho là đã tiến vào vùng biển cách bờ biển Đài Loan 24 hải lý. Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động quy mô lớn xung quanh Đài Loan quanh năm và tăng cường các hoạt động ở phía đông Đài Loan. Phá vỡ thông lệ trước đây, PLA hiện cung cấp rất ít hoặc không có cảnh báo trước về các cuộc tập trận của mình. Điều này đã làm dấy lên lo ngại ở Washington và Đài Bắc về thời gian chuẩn bị mà Mỹ và Đài Loan có thể có nếu Trung Quốc quyết định sử dụng vũ lực để chiếm hòn đảo.

Trong một thay đổi khác so với những năm trước, các đợt tập trận gần đây đã chứng kiến lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc phối hợp với hải quân để diễn tập phong tỏa Đài Loan. Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc, một mạng lưới các tàu dân sự do nhà nước hậu thuẫn thường được triển khai để khẳng định các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, cũng ngày càng tham gia nhiều hơn. Sự tham gia của các lực lượng mới này cho thấy Trung Quốc đang chuẩn bị tiến hành nhiều loại chiến dịch khác nhau, chẳng hạn như xâm lược, bao vây do hải quân PLA dẫn đầu và phong tỏa Đài Loan do cảnh sát biển Trung Quốc dẫn đầu.

Cuối cùng, Trung Quốc cũng đang hoạt động trên một phạm vi địa lý rộng lớn hơn: cuộc tập trận vào tháng 12 bao gồm một trong những đợt triển khai lực lượng hải quân lớn nhất từ trước đến nay từ cả ba bộ chỉ huy ven biển của PLA. Trung Quốc đã tiến hành các chiến dịch xung quanh Đài Loan và ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, thể hiện khả năng thống trị các khu vực bên trong chuỗi đảo thứ nhất – một vòng cung các đảo và quốc gia ở Tây Thái Bình Dương kéo dài từ Nhật Bản đến các khu vực của Indonesia – và ngăn chặn các lực lượng bên ngoài can thiệp để hỗ trợ Đài Loan.

Ngoài các chiến dịch lớn như vậy, Trung Quốc hiện tiến hành các cuộc xâm nhập quân sự gần như hàng ngày vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan, một khu vực tự tuyên bố mở rộng ra ngoài không phận chính thức của hòn đảo. Năm 2024, quân đội Trung Quốc đã thực hiện kỷ lục 3.075 lần xuất kích vào khu vực này, tăng hơn 80% so với năm 2023. Các hoạt động này nhằm mục đích làm mất tính hợp pháp các yêu sách của Đài Loan đối với vùng trời và vùng biển xung quanh và làm phức tạp khả năng giám sát và theo dõi các hoạt động xung quanh hòn đảo của Đài Loan.

Một số cuộc xâm nhập đường không này diễn ra như một phần của “các cuộc tuần tra sẵn sàng chiến đấu chung” bao gồm không chỉ các khí tài trên không mà còn các chiến dịch hàng hải phối hợp. Các cuộc tuần tra này hiện đang diễn ra gần như hàng tuần và mang lại cho Trung Quốc cơ hội nhanh chóng gia tăng áp lực đối với Đài Loan mà không cần đến các cuộc tập trận quy mô lớn hơn nhiều. Ví dụ, vài ngày sau khi ông Lại công bố 17 chiến lược của mình vào tháng 3, Trung Quốc đã tiến hành hai cuộc tuần tra sẵn sàng chiến đấu chung và sau đó, hai tuần sau đó, đã tổ chức cuộc tập trận “Lôi Đình Eo Biển-2025A”.

Yếu tố khó lường

Các quan chức Mỹ đang đưa ra cảnh báo về những hoạt động quân sự đáng chú ý này của Trung Quốc. Vào tháng Hai, Samuel Paparo, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của quân đội Mỹ, khẳng định rằng “các cuộc diễn tập hung hăng của Trung Quốc xung quanh Đài Loan hiện nay không phải là các cuộc tập trận… Chúng là các buổi diễn tập”.

Tuy nhiên, khi Trung Quốc tăng cường các hoạt động quân sự chống lại Đài Loan, nhiều người ở Bắc Kinh không biết lập trường của Washington là gì. Bắc Kinh tương đối tự tin rằng chính quyền Trump muốn tăng cường cạnh tranh với Trung Quốc, đặc biệt tập trung vào quan hệ kinh tế. Các nhà phân tích Trung Quốc cũng thường tin rằng Trump sẽ cố gắng sử dụng Đài Loan như một quân bài trong cuộc cạnh tranh này, nhưng không có sự đồng thuận về cách ông ta sẽ làm điều đó.

Các chuyên gia Trung Quốc đánh giá rằng Trump và nhóm của ông ta có sự chia rẽ về vấn đề Đài Loan. Nhiều người tin rằng Trump muốn đàm phán các thỏa thuận với Trung Quốc và rằng ông ta cùng nhiều người ủng hộ muốn tránh các vướng mắc quân sự ở nước ngoài. Nhưng những người diều hâu về an ninh quốc gia trong chính quyền, chẳng hạn như Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio, vẫn tập trung vào việc kiềm chế sự gây hấn và ảnh hưởng của Trung Quốc. Các đối tác Trung Quốc lưu ý rằng đội ngũ an ninh quốc gia của Trump không tiếp thu những lo ngại của Trung Quốc về ông Lại, và họ lo ngại rằng khi nói đến chính sách hàng ngày đối với Đài Loan, chính quyền này có khả năng sẽ tăng cường quan hệ với Đài Bắc thông qua hợp tác sâu rộng hơn và tăng cường bán vũ khí.

Những đánh giá mâu thuẫn này khiến Bắc Kinh không chắc chắn về việc liệu Mỹ có bảo vệ Đài Loan khỏi các cuộc tấn công quy mô lớn hoặc các kịch bản cường độ thấp hơn hay không. Nhưng các quan chức Trung Quốc tin rằng, nếu không được kiểm soát, Mỹ có khả năng sẽ tiến gần hơn nữa đến Đài Loan. Điều đó tạo ra một động lực dễ dẫn đến tính toán sai lầm. Trung Quốc có thể xác định rằng họ cần đối xử với Đài Loan một cách quyết liệt hơn để làm rõ với đội ngũ an ninh quốc gia của Trump rằng họ sẽ không dung thứ cho việc quan hệ Mỹ-Đài Loan ngày càng gia tăng cũng như các động thái mà họ coi là gây hấn của Đài Loan. Trong khi đó, việc Trung Quốc nhận thấy rằng Trump không hoàn toàn sẵn lòng bảo vệ Đài Loan có thể khiến Bắc Kinh cân nhắc các hành động leo thang hơn nữa chống lại hòn đảo.

Sửa chữa sai lầm

Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và các đồng minh không được bỏ qua những thay đổi trong nhận thức của Trung Quốc về Đài Loan và các hành động của họ đối với hòn đảo. Khi nhiệm kỳ của ông Lại tiếp tục, Bắc Kinh và Đài Bắc có khả năng sẽ bước vào một tình huống nguy hiểm hơn. Các chuyên gia Trung Quốc tin rằng ông Lại có thể thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn để thúc đẩy độc lập của Đài Loan vào năm 2027 trước thềm cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo. Nếu ông Lại không được lòng cử tri trong các cuộc thăm dò, các nhà phân tích Trung Quốc lo ngại rằng ông có thể leo thang lập trường chống Bắc Kinh để giành được sự ủng hộ bầu cử, giống như ông Trần đã làm vào năm 2008. Bản thân Tập Cận Bình đã đặt ra thời hạn năm 2027 để PLA có khả năng dùng vũ lực chiếm Đài Loan. Với việc ông Tập thúc đẩy hiện đại hóa PLA, khó có khả năng các lãnh đạo quân sự của ông sẽ nói với ông vào năm 2027 rằng Trung Quốc không có khả năng thực hiện thành công các hoạt động quân sự quy mô lớn chống lại Đài Loan, nghĩa là ông Tập có thể cảm thấy tự tin hơn vào thời điểm đó – và sẵn sàng gây ra một cuộc khủng hoảng hoặc xung đột.

Sự kiên nhẫn càng suy giảm và ý định cứng rắn hơn của Bắc Kinh càng làm cho việc chính quyền Trump đảm bảo rằng Trung Quốc hiểu rõ quyết tâm của Mỹ và sự sẵn sàng của họ trong việc chống lại sự gây hấn của Trung Quốc trở nên quan trọng hơn. Mỹ phải thực hiện những nỗ lực lớn hơn để ngăn chặn một cuộc xung đột hoặc, nếu không thành công, để bác bỏ và đánh bại chủ nghĩa mạo hiểm quân sự của Trung Quốc. Bên cạnh việc xây dựng năng lực quân sự của chính mình – cũng như của Đài Loan và các đồng minh – và tăng đáng kể chi tiêu quốc phòng của các đồng minh và đối tác, Washington phải tích hợp tốt hơn các yếu tố khác nhau trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và Đài Loan để tăng cường răn đe và giảm thiểu rủi ro hiểu lầm từ các đối thủ tiềm năng.

Điều này quan trọng bởi vì Bắc Kinh không chỉ đánh giá quyết tâm của Mỹ bằng cách nhìn vào những gì Mỹ đang làm về quốc phòng. Ví dụ, khi các chuyên gia Trung Quốc theo dõi các cuộc đàm phán thương mại và thuế quan giữa Mỹ và Trung Quốc, một số người nhận thấy Washington đã nhanh chóng vừa tăng cường vừa tạm thời rút lui về thuế quan như thế nào. Điều này cho thấy Trump ban đầu chỉ đang giương oai và chính quyền hiện tại nhận ra rằng họ cần hợp tác với Trung Quốc, bất chấp việc họ tập trung vào cạnh tranh.

Khi Mỹ đang hành động nhanh chóng trên nhiều mặt trận, điều quan trọng là phải chú ý đến cách Bắc Kinh có thể xâu chuỗi các chính sách khác nhau của Mỹ để xây dựng một sự hiểu biết lớn hơn về chiến lược và ý định của Mỹ. Nếu Trung Quốc đang hiểu lầm Mỹ, thì điều cực kỳ quan trọng là chính quyền Trump phải sửa chữa và bác bỏ những cách giải thích của Trung Quốc, cả công khai lẫn riêng tư.

Nếu chính quyền Trump không muốn một cuộc khủng hoảng xảy ra, họ không nên để ngỏ cánh cửa như vậy cho Bắc Kinh. Tình hình eo biển Đài Loan vốn đã đủ bất ổn trong vài năm tới, vì vậy đừng để những nhận định sai lệch của Trung Quốc về việc Mỹ sẵn sàng làm gì – hoặc không sẵn sàng làm gì – làm mọi thứ thêm rối ren.

Theo Nghiên cứu Quốc tế

BONNY LIN là Giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc và Cố vấn Cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).

JOHN CULVER là Nghiên cứu viên Cấp cao Không thường trú tại Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc John L. Thornton thuộc Brookings. Ông từng là sĩ quan CIA trong 35 năm, bao gồm cả vị trí Sĩ quan Tình báo Quốc gia về Đông Á từ năm 2015 đến 2018.

BRIAN HART là Phó Giám đốc và Nghiên cứu viên của Dự án Sức mạnh Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).